V- Nguyễn Huy Chuyển
1- Là con thứ 5, sinh tháng 4 năm 1916. Mất lúc 6 giờ sáng ngày 21 tháng 4 năm 1995 tức ngày 22 tháng 3 năm ất Hợi tại Bệnh viện E thành phố Hà Nội.
2- Cụ bà: Phạm Thị Gái, sinh năm 1916, là con gái cụ cố Phạm Liên (tức cụ Ba Liên), là một nhà nho, một thầy thuốc y học cổ truyền dân tộc, một hội viên Hội thanh niên cách mạng đồng chí hội và hội viên hội "Giáp dân đinh" cùng làng.
Mất ngày 23 tháng 6 năm 1963 tức ngày 3 tháng 5 năm Quý Mão tại quê.
3- Phần mộ hai cụ đặt cạnh nhau trong khu mộ gia tộc tại nghĩa trang xã (Mục Nang), có bàn thờ tưởng niệm khang trang, chếch hướng Nam , nhìn ra đường liên xã.
Hai cụ đều xuất thân gia đình nông dân nghèo, có lòng yêu nước. Các thân phụ sớm tham gia hoạt động cách mạng từ những năm 1929, 1930.
Hai cụ lúc nhỏ đều được học hành. Cụ ông học hết cấp sơ học và học thêm chữ Hán.
Mấy năm đầu lập gia đình, hai cụ chung sống với cha mẹ trong ngôi nhà gỗ, mái rạ 3 gian hướng Bắc (cạnh đầu nhà các anh thứ ba, thứ tư); Cuối năm 1939, đầu năm 1940 chuyển sang ở ngôi nhà gỗ 5 gian hướng Đông Nam của anh cả nhường cho (cạnh nhà anh thứ hai).
Hai cụ tự lập, cày cấy mấy sào ruộng thuê trả tô làng Phú Mỹ, chắp gai, đan vó... để kiếm sống và lập cơ nghiệp. Cụ bà còn làm hàng xay, hàng xáo buôn bán thóc gạo; buôn bán gai, vó... ở chợ phiên, chợ chiều trong làng.
Hai cụ chung sống hạnh phúc nhưng rất vất vả về sinh con cái. Cụ bà sinh nhiều lần nhưng hữu sinh, vô dưỡng. Từ năm 1940 trở đi, các cụ mới yên tâm về con cái.
Các cụ có 3 người con (2 trai, 1 gái) là đời thứ tư trong gia tộc và là đời thứ 14 dòng họ Nguyễn:
Họ tên
|
Năm sinh
|
Ghi chú
|
Nguyễn Hữu Tiệm
|
1940
| |
Nguyễn Thị Bồng (Thu)
|
1950
| |
Nguyễn Tiến Đảng
|
1957
|
Các cụ tiếp tục cần cù, siêng năng làm lụng buôn bán nuôi con và gây dựng cơ nghiệp. Gia đình các cụ cũng là một thành viên Công ty Tư Nguyên (sau là Công ty Phổ Niệm) buôn bán gai, vó, chài lưới. Cụ ông là một trợ thủ đắc lực của người anh thứ tư Nguyễn Truyền (Nguyễn Nhân), Giám đốc của Công ty trong việc quản lý, điều hành và quan hệ giao dịch với khách hàng xa, gần để kinh doanh phát đạt. Cụ bà nội trợ gia đình, tiếp tục cày cấy một mẫu ruộng và buôn bán gai, vó... ở chợ phiên trong làng. Song do sinh đẻ nhiều lần, cụ bà thường ốm đau, sức khoẻ giảm sút nên cụ ông vẫn phải quan tâm thêm công việc nhà và chăm sóc cụ bà.
Từ lúc tuổi trẻ, cụ ông là một thanh niên hoạt bát, siêng năng, chăm chỉ, sớm nhận thức rõ trách nhiệm đối với gia đình và nhạy cảm với tình hình xã hội bên ngoài. Nhờ ảnh hưởng tốt của cha và sự gần gũi giúp đỡ của bạn bè, thân thuộc là những chiến sĩ cách mạng, những đảng viên Cộng sản tuyên truyền giác ngộ cách mạng. Bước sang tuổi 15, cụ đã tham gia phong trào "đòi vay thóc của địa chủ, chia cho nông dân nghèo năm 1930" do Đảng bộ địa phương lãnh đạo. Tiếp sau, cụ tham gia phong trào dân chủ 1936 - 1939, là hội viên Hội nông dân ái hữu, hội viên Hội truyền bá quốc ngữ. Cụ tích cực hoạt động công tác của tổ chức cách mạng mình tham gia. Đến cách mạng Tháng 8 năm 1945, cụ cùng nhân dân biểu tình lên huyện giành chính quyền. Sau ngày khởi nghĩa, cụ được tham gia chính quyền cách mạng ở xã; được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) tháng 8 năm 1947, làm chính trị viên xã đội. Từ năm 1949 trở đi, cụ được bầu làm Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính xã và sau này kiêm Bí thư chi bộ xã Đình Phùng (bao gồm các thôn Nam Huân Nang, Cao Bạt Nang, Bạt Trung Nội, Nam Đường, Cao Bạt Lụ). Từ năm 1952, cụ được điều làm cán bộ tuyên huấn huyện uỷ và làm Uỷ viên Uỷ ban kháng chiến hành chính huyện Kiến Xương. Năm 1953, cụ được bổ nhiệm Chánh Văn phòng Trường chỉnh huấn Khu Tả Ngạn.
Khi cải cách ruộng đất ở xã, cụ bị bắt về đấu tố, quy kết là đảng viên Quốc dân đảng và mấy tháng giam cầm tại nhà tù thuộc tỉnh Sơn Tây cũ (nay là tỉnh Hà Tây). Cụ được trả lại tự do, khôi phục Đảng tịch, an dưỡng phục hồi sức khoẻ sau khi sửa sai của Đảng và Nhà nước. Năm 1958, cụ được cử làm Uỷ viên thường trực kiêm Chánh văn phòng Uỷ ban Mặt trận Liên Việt tỉnh Thái Bình.
Cụ là người tận tuỵ, trung thành với Đảng, với nước, với dân và hết lòng với gia đình, vợ con.
Thời kỳ kháng chiến chống Pháp dù địch thường xuyên càn đi, quét lại, đánh phá khốc liệt, làng xóm tan hoang, bắt bớ giam cầm nhiều người nhưng cụ đã gan dạ, dũng cảm cùng cấp uỷ, chi bộ bám đất, bám làng, bám dân ngày này, qua ngày khác để lãnh đạo chiến đấu chống giặc càn quét, giữ vững trật tự an ninh làng xóm, tiếp tục sản xuất ổn định cuộc sống của nhân dân. Xã Đình Phùng lập được thành tích chiến đấu, sản xuất và được tặng thưởng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ chống Pháp (năm 2001) là công lao của toàn Đảng bộ và nhân dân xã, trong đó có sự cống hiến của cụ.
Tuy bị oan sai, đấu tố, giam cầm trong cải cách ruộng đất nhưng cụ vẫn vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng, chưa bao giờ tỏ ra oán trách và tiếp tục có trách nhiệm với công tác của Đảng giao.
Do hậu quả những năm, tháng gian khổ ở vùng địch hậu và tù đày oan sai, cụ bị đau tim nặng cùng nhiều bệnh tật khác, không thể tiếp tục hoạt động công tác cách mạng; Đảng và Nhà nước đã quan tâm, để cụ được nghỉ hưu dưỡng sức sớm (năm 1964).
Đảng và Nhà nước đánh giá đúng sự cống hiến của cụ đối với Tổ quốc và nhân dân, đa dành cho cụ phần thưởng xứng đáng:
- 1 Huân chương kháng chiến chống Pháp hạng ba
- 2 bằng khen của thủ tướng Chính phủ và nhiều bằng giấy khen cấp khu, tỉnh.
Trong gia đình, cụ là người con hiếu thảo với cha mẹ; là người em, người anh khiêm nhường, tôn trọng, gắn bó với anh chị em; là người chú thường gần gũi trao đổi tình cảm và quý mến các cháu. Cụ cũng là người góp một phần sự thịnh vượng của gia tộc.
Cụ là người chu đáo, tận tình, tận nghĩa với vợ con - Tuy sức khoẻ có hạn, cũng bị bệnh tật lại thêm bận mải làm lụng và công tác, nhưng cụ rất chịu khó, tận tình chăm sóc, nuôi dưỡng, thuốc men chu đáo cho cụ bà ốm đau trong suốt những ngày tháng bị bệnh. Khi cụ bà mất, trong gia đình không nhứng thiếu hụt về tình cảm mà còn khó khăn nhiều bề; kinh tế gia đình quá eo hẹp và các con nhỏ còn ít tuổi, học hành dở dang; Cụ chỉ còn biết một mình ráng sức làm lụng và dè sẻn đồng lương hưu ít ỏi để lo toan học hành, nuôi dưỡng các con nhỏ trưởng thành lo toan cho con lớn tốt nghiệp Đại học, có việc làm, có gia đình, cơ nghiệp riêng.
Cuộc đời của cụ vô cùng gian lao, vất vả nhưng cụ đã toại nguyện là con cái đều trưởng thành, có cơ nghiệp riêng, đời sống kinh tế khá giả, sung túc và hầu hết là cán bộ, nhân viên Nhà nước; có người giữ chức vị cao của cơ quan Nhà nước; Hai con trai đều là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét