1- Là con trưởng, sinh năm 1904, mất lúc 13 giờ ngày 04 tháng 3 năm 1977 (tức ngày 15 tháng giêng năm Đinh Tỵ tại bệnh viện Quân y 109 - Cục Quân y - Tổng cục Hậu Cần) Thị xã Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
2- Cụ bà là Phạm Thị Tý: Sinh năm 1906. Mất lúc 17 giờ ngày 08 tháng 11 năm 1988 (tức ngày 29 tháng 9 năm Mậu Thìn) tại nhà ở quê.
Là con gái cụ cố Phạm Lộc, một nông dân, một hội viên "Hội Giáp dân đinh", ở xóm Tiền Ma (nay là xóm 2 xã Đình Phùng, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình).
Có 7 anh chị em (4 trai, 3 gái - 1 trai chết lúc nhỏ). Trong đó có cụ Phạm Đức Lợi (anh ruột) và cụ Phạm Xiển (em ruột) là đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam ) từ năm 1930.
3- Phần mộ hai cụ đều xây hình chữ nhật, đặt cạnh nhau trong khu vực mộ của gia tộc tại nghĩa trang xã (Mục Nang) hướng Đông Nam, nhìn ra đường liên xã và cánh đồng Tiền Ma.
Hai bên gia đình cha mẹ đều là nông dân nghèo, có lòng yêu nước, có tinh thần cách mạng. Lúc nhỏ, hai cụ không được học hành, chỉ ở nhà giúp đỡ cha mẹ chăn trâu, cắt cỏ và công việc đồng ruộng.
Hai cụ sớm lập gia đình với nhau và có 10 người con (là Đời thứ 4 trong gia tộc và đời thứ 14 họ Nguyễn):
Họ tên
|
Năm sinh
|
Ghi chú
|
Nguyễn Viết Vy
|
1926
| |
Nguyễn Văn Hữu
|
1928
| |
Nguyễn Thị Hợi
|
1935
|
(Mất lúc nhỏ)
|
Nguyễn Ngọc Huệ
|
1936
|
(Mất lúc nhỏ)
|
Nguyễn Thị Lơ
|
1936
| |
Nguyễn Tri Thông
|
1941
|
Mất 7-1-1988 (Tức 18-11 Đinh Mão)
|
Nguyễn Thị Dịu
|
1943
| |
Nguyễn Thị Dụ
|
1945
| |
Nguyễn Văn Việt
|
1947
| |
Nguyễn Văn
|
1949
|
Khi ra ở riêng, hai cụ làm lụng lập nghiệp chưa có vốn liếng nhiều. Nhờ sự giúp đỡ ban đầu của gia đình bên ngoại một con bò và 2 sào ruộng thuê, hai cụ chăm chỉ cày, cấy, chăm bón để có thóc lúa và khi không làm ở đồng ruộng lại chắp gai, đan vó..., cất vó, đơm đó bắt cá, tôm tép, làm hàng xay, hàng xáo ở chợ gần, chợ xa để cải thiện thêm đời sống và tích luỹ vốn liếng. Diện tích cày cấy hàng năm có thuê thêm của làng Phú Mỹ. Thóc lúa thu hoạch mỗi vụ ngày càng tăng lên. Trong nhà đã có nhiều tiền bạc hơn. Năm 1939, hai cụ mua đất lập thổ cư, làm ngôi nhà gỗ, mái rạ 5 gian đầu tiên và nhường ngôi nhà gỗ 5 gian của cha mẹ cho lúc ở riêng cho em trai thứ 5.
Những năm 1940..., hai cụ chung vốn cùng gia đình lập Công ty Tư Nguyên buôn bán gai, vó, chài lưới. Buôn bán phát đạt, tiền bạc trong nhà ngày càng dư dật hơn. Hai cụ không thuê ruộng nộp tô nữa và dành mỗi năm một số tiền tậu một vài sào tư điền của địa chủ, phú nông trong làng bán. Cuối năm 1944, gia đình đã có 4 mẫu, 5 sào tư điền để cày cấy; Kinh tế gia đình năm 1942 - 1944 ở bậc trung nông trong làng. Hai cụ làm thêm căn nhà gỗ xoan, tre, tu bổ cơi ngơi hoàn chỉnh.
Năm ất Dậu (1945), phát xít Nhật bắt nhổ lúa trồng đay, thu mua hết thóc lúa, lại phải nộp sưu thuế cao. Dân làng và gia đình không còn thóc gạo để sinh sống, lâm vào nạn đói.
Tiếp sau cách mạng tháng 8 năm 1945 lại bão gió, vỡ đê, lụt lội, lúa má ngoài đồng hư hại nặng, thu hoạch thất bát.
Kháng chiến toàn quốc (19/12/1946) bùng nổ. Giặc Pháp đánh chiếm tỉnh Thái Bình, lập đồn bốt dày đặc, càn quét bắt bớ giam cầm, liên miên bắn phá tan hoang nhà cửa, ruộng, vườn. Người chết, súc vật chết. Việc cày cấy ruộng đồng của dân làng ngừng trệ và cuộc sống không ổn định.
Sau khi địch rút lui khỏi tỉnh Thái Bình hai cụ thấy không còn đủ sức cày cấy số ruộng của mình và đã để cho hai em trai (nội, ngoại) cày cấy trên một nửa.
Cuối năm 1955, hai cụ cùng các con tham gia tổ đổi công với làng xóm cày cấy số ruộng còn lại. Trong cải cách ruộng đất năm 1956, gia đình bị quy là địa chủ kháng chiến. Cụ ông bị bắt giữ, đấu tố. Nhà cửa, tài sản bị tịch thu, đem chia cho nông dân cốt cán của đội cải cách ruộng đất. Gia đình lâm vào cảnh cực kỳ khó khăn, nghiệt ngã, không còn lương thực, tiền nong, đồ dung sinh hoạt hàng ngày trong nhà. Các con nhỏ phải nghỉ học cùng cụ bà ra sông ngòi, đồng ruộng mò cua, bắt ốc, tôm tép... đem ra chợ đổi bán lấy gạo ăn sinh sống hàng ngày. Tuy khi sửa sai, gia đình được trả lại thành phần Trung nông nhưng phải chịu khó khăn khổ sở kéo dài mấy năm sau này. Hai cụ chỉ còn biết nhẫn nại hàn gắn vết thương gia đình, tiếp tục ráng sức làm lụng để ổn định cuộc sống, nuoi nấng các con nhỏ học hành lên bậc đại học và theo chân các anh đi công tác, chiến đấu quân xâm lược, giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc.
Hai cụ chỉ là một nông dân nghèo, với những bàn tay lao động siêng năng, cần mẫn, căn cơ tiết kiệm mà đi lên; không làm một chức vị gì của chế độ đế quốc thực dân, phong kiến; chẳng phải là cường hào, ác bá nợ máu với nhân dân. Hai cụ sống có tình nghĩa với làng xóm.
Cụ ông rất hiền hậu, trầm tính, siêng năng làm lụng, yêu thương, quý mến con cháu, chẳng hề xích mích với ai. Cụ bà tuy tính tình nóng nảy, bộc trực, nói năng đôi lúc thiếu cẩn trọng, nhưng năng nổ, tháo vát, hay làm, thảo lảo sẵn sàng giúp đỡ những người khó khăn, hoạn nạn.
Trong cả cuộc đời, hai cụ chỉ là người nông dân lương thiện, biết theo lẽ phải, làm theo tiếng gọi của Đảng, của Tổ quốc.
Năm 1930, cụ ông là hội viên "Hội giáp dân đinh" một tổ chức cách mạng của nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương. Trong phong trào đòi vay thóc của địa chủ, chia cho nông dân nghèo, hai cụ đều hăng hái tham gia. Khi Đảng lãnh đạo khởi nghĩa tháng 8 năm 1945 giành chính quyền ở huyện, cụ ông cùng thân thuộc trong gia đình nội, ngoại cũng có mặt trong đội ngũ quần chúng biểu tình. Sau đó cụ ông vào Hội nông dân cứu quốc, cụ bà vào hội phụ nữ cứu quốc, tiếp theo là hội phụ lão. Cụ ông còn là uỷ viên ban chấp hành mặt trận Liên việt huyện Kiến Xương, thường được mời đi dự hội nghị các gia đình có công với cách mạng, với kháng chiến, hội nghị thi đua, ngày lễ, tết của huyện và tỉnh. Hai cụ thường xuyên nhường nhà ở, giúp đỡ cán bộ, thương binh, bộ đội về làng chiến đấu và cất dấu, bảo vệ cán bộ khi địch càn quét.
Từ khởi nghĩa tháng 8 năm 1945, hai con trai lớn của hai cụ gia nhập Vệ quốc đoàn chiến đấu. Con trai trưởng liên tục gần 45 năm trong quân đội. Trong 2 cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, gia đình có 6 người con trai, gái, dâu, rể là sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam . Tiếp theo sau có 4 cháu trai nội cũng là sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam . Ngoài ra, hầu hết số con, cháu khác đều là cán bộ, công nhân, viên chức ở các cơ quan Nhà nước. Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam là con, cháu trai, gái, dâu, rể, nội, ngoại có tới 19 người. Các con cháu công tác, chiến đấu vững vàng, hoàn thành tốt nhiệm vụ, lập công được khen thưởng xứng đáng và giữ gìn trong sáng đạo đức, phẩm chất.
Hai cụ được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Bảng gia đình vẻ vang, Bảng vàng danh dự, hai Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ và Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng ba do có công với nước, với dân.
Cuộc đời của hai cụ tuy có lúc phong ba, bão táp, gian truân, vất vả, khó khăn nhưng với tinh thần tự lực cánh sinh, với hai bàn tay lao động của mình, siêng năng, cần mẫn, tần tảo, căn cơ, tiết kiệm xây dựng được gia đình mình trong mọi hoàn cảnh có nền nếp và ổn định cuộc sống; các con cháu học hành tử tế, có kiến thức, trình độ học vấn đủ điều kiện tham gia công việc xã hội, đất nước và có cơ nghiệp riêng.
Đó là điều hạnh phúc nhất của hai cụ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét