Thứ Tư, 18 tháng 7, 2007

IV- Nguyễn Truyền Tức Nguyễn Nhân

1- Là con thứ tư, sinh năm 1912 - Mất lúc 22 giờ 30 phút ngày 16 tháng 2 năm 1995 tức ngày 17 tháng Giêng năm ất Hợi.
2- Các cụ bà:
- Cụ bà cả: Phạm Thị Nhí, sinh năm 1911
Là con gái cụ cố Phạm Tạc (tức cụ bạ Tạc) cùng làng.
- Cụ bà hai: Nguyễn Thị Năm
Sau từ biệt cụ ông và con nhỏ đi lập gia đình mới.
- Cụ bà ba: Phạm Thị Rậu, sinh năm 1923
Là con gái cụ cố Phạm Lượng, cùng xóm, cùng làng.
3- Phần mộ:
- Mộ cụ ông: Xây hình chữ nhật trong khu mộ gia tộc tại nghĩa trang xã (Mục Nang), hướng Đông Nam, nhìn ra đường liên xã và cánh đồng Tiền Ma.
Các cụ đều xuất thân từ gia đình nông dân nghèo, quanh năm làm ruộng và chắp gai, đan vó. Sau này, các cụ cùng chung sống với nhau vẫn tiếp tục nghề nghiệp của gia đình cha mẹ đôi bên để sinh sống, lập nghiệp.
Các cụ sinh được 13 người con (7 trai, 6 gái) là đời thứ 4 trong gia tộc và là đời thứ 14 họ Nguyễn:
Các con cụ bà cả:
Họ tên
Năm sinh
Ghi chú
Nguyễn Hưu
1935
Liệt sĩ (giấy báo tử 1934), hy sinh tại chiến trường Quảng Trị trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước ngày 12 tháng 7 năm 1972 (tức ngày 02 tháng 6 Nhâm Tý)
Nguyễn Duy Tiên
1938

Nguyễn Xuân Tùng (tức Nguyễn Văn Tường)
1940

Nguyễn Thị Nguyệt
1943

Nguỹen Xuân Tình
1949

Nguyễn Thị Ngoạt
1951

Nguyễn Thị Mỹ
1952

Con cụ bà hai:
Họ tên
Năm sinh
Ghi chú
Nguyễn Thị Nhung
1943

Các con cụ bà ba:
Họ tên
Năm sinh
Ghi chú
Nguyễn Đức Tính
1949

Nguyễn Đức Toán
1952

Nguyễn Quốc Toản
1955

Nguyễn Thị Oanh
1959

Nguyễn Thị Phượng
1963

Tuy gia đình đông người, con cái cùng cha khác mẹ chung sống với nhau trong 2 ngôi nhà (nhà hướng Bắc, gỗ ngói 5 gian, nhà hướng Đông - Nam gạch, ngói 4 gian) nhưng êm thắm, ít xảy ra va chạm, to tiếng với nhau. Các cụ bà coi con cái như nhau, không phân biệt đối xử ngăn cách giữa con bà cả, bà thứ. Các con trong nhà coi các cụ bà là mẹ của mình. Cụ bà cả là người hiền hậu, khoan dung, độ lượng, đúng mức, biết nhường nhịn, chịu khó làm lụng và nuôi dạy con cái. Từ khi cụ ông mất, cụ bà cả và cụ bà ba cùng chung sống với nhau. Cụ bà ba trông nom, chăm sóc cụ bà cả già yếu như chị em.
Cụ ông lúc nhỏ không được học hành chữ nghĩa nhiều nhưng là người chăm chỉ, chịu khó, năng nổ, tháo vát, biết lao động làm giàu.
Ban đầu, cụ chỉ là một thanh niên nông dân chăm lo chăn nuôi đàn vịt, đàn ngỗng, lợn nái để gây dựng vốn liếng. Lúc đông con cái, cụ phải lo toan làm kinh tế khá hơn để đảm bảo cuộc sống cả gia đình và học hành của con cái. Cụ là người chủ gia đình bao quát quản lý, tính toán kế hoạch mọi công việc trong nhà từ việc cày cấy đến việc buôn bán. Cụ giao tiếp với xã hội bên ngoài khá rộng để buôn bán. Có lúc, cụ buôn bán trâu, bò, nhưng chủ yếu mở rộng buôn bán gai, vó, chài, lưới ở nhiều nơi xa như các tỉnh Nam Định, Hà Nội, Hải Dương, Hoà Bình, Cao Bằng và sau này phát triển tới Quảng Ngãi, Sài Gòn, Cămpuchia. Cụ có nhiều bạn hàng.
Cụ là một trong những người sáng lập và là Giám đốc Công ty Tư Nguyên buôn bán gai, vó, chài lưới của đại gia đình vào cuối năm 1939, đầu năm 1940; Sau mở rộng cổ phần đổi tên là Công ty Phổ Niệm. Tuy cụ là Giám đốc điều hành, quản lý chung các công việc của Công ty nhưng vẫn cùng các thành viên trực tiếp quan hệ giao dịch, nhận và giao hàng.
Chất lượng hàng hoá của Công ty được tín nhiệm với khách hàng ở nhiều nơi và được chính quyền cai trị hàng xứ, tỉnh thời đó khuyến khích, cho phép triển lãm hội chợ tại nhà Đấu xảo Hà Nội, nhà Khai trí Tiến Đức Thái Bình và tại Đình làng.
Cụ và Công ty có công khôi phục, phát triển nghề thủ công truyền thống của địa phương, tạo được công việc làm và cải thiện đời sống cho người lao động nên cụ đã được Nhà nước phong kiến, bảo hộ lúc đó tặng thưởng bằng "Cửu phẩm bá hộ".
Cụ là người không chỉ biết lo cho gia đình mình khá giả, còn chăm lo cho sự thành đạt của Công ty, thu nhập của thành viên và anh em trong đại gia đình ngày càng tăng trưởng. Quan hệ cư xử của cụ ở trong đại gia đình cũng như bên ngoài xã hội rộng rãi, thoáng đãng. Cụ cũng chăm lo việc công đức, ích nước, lợi dân. Trước khi qua đời, cụ đã hiến ngôi nhà gỗ 5 gian mái ngói làm từ đường gia tộc.
Từ thuở trẻ, cụ không chỉ có ý thức làm giàu cho gia đình mà còn sớm thấy được những nông dân trong làng cùng cảnh túng nghèo như cha mẹ mình bị bọn cường hào, chức sắc, địa chủ áp bức, đè nén, bóc lột. Năm 1930, cụ là hội viên "Hội giáp dân đinh", thành viên đội vũ trang của hội, cùng dân làng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương tích cực đấu tranh chống bọn địa chủ, cường hào tham nhũng trong làng. Cụ đã từng tham gia cuộc vũ trang tuần hành áp đảo địa chủ Phạm Song trong vụ tranh chấp ruộng với ông Vĩnh, là một nông dân, hội viên "Giáp dân đinh" ở cánh đồng làng Phú Mỹ (khu ruộng gần cầu tre ông Tý). Ngày 12 tháng 4 năm 1930, cụ cũng là một người trong những người tiên phong của đội vũ trang vượt tường mở hai tầng cổng nhà địa chủ Phạm Song (Bát Song) để nhân dân tràn vào đòi vay thóc. Khi binh lính đế quốc đàn áp, bắt bớ, cụ đã gan dạ đánh trả, cứu thoát được nhiều người. Từ đó, cụ cùng đội vũ trang cách mạng bảo vệ các cuộc mít tinh, hội họp, rải truyền đơn của tổ chức cách mạng địa phương.
Đến đêm, cụ tụ tập luyện và dạy võ thuật cho đội vũ trang tại sân nhà mình, sân nhà cụ Phạm Xiển (đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương) hoặc tại nhà thầy dạy võ là cụ Cai Châu làng Cao Bạt Lụ. Võ thuật của cụ là một trong những bậc khá giỏi ở làng xã thời đó. Ngoài các môn quyền, côn, thương, đao kiếm, cụ còn luyện thành đạt môn khí công (gồng). Nhờ luyện tập nâng cao võ thuật thường xuyên, đôi vũ trang của làng đã đánh thắng bọn côn đồ các nơi khác do địa chủ Phạm Song (Bát Song) thuê về trấn áp dâng làng (năm 1934) và đòi lại được những mẫu ao, bãi tre, xoan dài hàng trăm mét do em ruột Bát Song là cựu phó tổng chiếm đoạt từ năm 1935. Thời kỳ Mặt trận bình dân (1936 - 1939), các chiến sĩ cách mạng trong làng được trả tự do trở về, đã nhanh chóng củng cố lại phong trào cách mạng ở địa phương, cải tổ Hội giáp dân đinh, đội vũ trang cách mạng thành Hội nông dân ái hữu. Cụ vẫn ở trong hội, vừa hoạt động công tác của hội, vừa làm ruộng và buôn bán. Khi cụ ở quê nhà, lúc cụ ở thành phố Nam Định.
Cách mạng tháng 8 năm 1945, cụ tham gia tự vệ chiến đấu ở khu phố Nam Định.
Khi kháng chiến Toàn quốc chống Pháp (12/1946) bùng nổ, cụ trở về quê tham gia hội nông dân cứu quốc, tiếp tục hoạt động và làm ruộng. Gia đình cụ thường xuyên là nơi trú ngụ của cán bộ, bộ đội về làng chiến đấu chống địch càn quét, đánh phá. Cụ đã nhường nhà ở, giúp đỡ lương thực, thực phẩm. Thời kỳ ác liệt nhất cuộc kháng chiến chống Pháp (1950), con trai đầu Nguyễn Hưu mới 15 tuổi đã xung phong, tình nguyện lên đường vào bộ đội đánh giặc cứu dân, cứu nước; qua nhiều đơn vị chiến đấu bộ binh, pháo binh và chiến đấu trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Nguyễn Hưu đã liên tục 22 năm quân ngũ, hy sinh khi là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Tăng - Thiết giáp chiến đấu với địch trong chiến dịch Quảng Trị (12 tháng 7 năm 1972) thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước; được tặng thưởng Huân chương chiến công hạng ba và Bằng Tổ quốc ghi công liệt sĩ.
Đến cải cách ruộng đất, cụ bị đấu tố và quy là địa chủ kháng chiến. Gia đình lâm vào cảnh vất vả, lao đào về đời sống. Mọi người trong nhà phải lo kiếm sống từng ngày. Các con cái phải ngừng học hành. Lúc sửa sai, được trả lại thành phần cũ nhưng của cải trong nhà đã cạn kiệt. Song, cụ là người năng nổ, tháo vát, biết tính toán làm ăn nên một thời gian ngắn đã khôi phục ổn định cuộc sống của gia đình. Các con của cụ lại cắp sách đến trường, học hành tử tế, có chí vươn lên và sau này đều trưởng thành, có cơ nghiệp riêng. Phần đông tham gia cách mạng, công tác trong các ngành công nghiệp, thương mại, giáo dục, quân đội; có người giữ cương vị lãnh đạo, chỉ huy, quản lý đơn vị, xí nghiệp. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là con cháu, trai, gái, dâu, rể, nội ngoại có tới 11 người.
Đến kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hai người con trai khác của cụ theo gương anh cả lại vào quân đội chiến đấu với kẻ thù. Khi đó, cụ đã tuổi cao, sức yếu nhưng vẫn nhiệt tình tham gia công tác. Cụ được tín nhiệm bầu vào ban quản trị hợp tác xã nông nghiệp toàn xã, cử làm Trưởng ban kiến thiết xã, chỉ đạo, quản lý xây dựng các công trình công cộng của xã, sản xuất gach ngói.
Cuộc đời của cụ có lúc gian nan, vất vả nhưng cụ rất tự hào gia đình ổn định, con cái trưởng thành, có cơ nghiệp riêng cùng với cụ cống hiến cho dân, cho nước.
Đảng và Nhà nước ghi công của cụ, tặng thưởng Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng ba và nhiều bằng, giấy khen khác.

Không có nhận xét nào: