Sơ lược nguồn gốc và mối quan hệ với gia tộc
Nguồn gốc và mối quan hệ với gia tộc như sau:
1- Đức tổ Nguyễn Bảo Đức (Tên huý là Nguyễn Đắc) là khởi tổ (Đời thứ nhất) họ Nguyễn Nam Huân Nang sinh được một con trai là đức tổ Nguyễn Trường Thọ đời thứ 2 (hai) và có một cháu trai là đức tổ Nguyễn Chính Tâm đời thứ 3 (ba).
Đức tổ Nguyễn Chính Tâm đời thứ ba sinh được hai con trai thuộc đời thứ 4 (tư) là các đức tổ:
- Nguyễn Phúc Minh: ngành trưởng (ngành 1)
- Nguyễn Trực Niệm: ngành thứ (ngành 2)
2- Đức tổ Nguyễn Trực Niệm, đời thứ 4 là tổ của ngành thứ (ngành 2) sinh được một con trai là đức tổ Nguyễn Chính Hành, đời thứ 5 (năm) và có một cháu trai là đức tổ Nguyễn Mẫn Tiệp tức Nguyễn Văn Vui, đời thứ 6 (sáu).
Đức tổ Nguyễn Mẫn Tiệp tức Nguyễn Văn Vui, đời thứ 6 (sáu) sinh được 3 con trai thuộc đời thứ 7 (bảy) là các đức tổ:
- Nguyễn Đăng Kiều là tổ chi 1 ngành 2
- Nguyễn Đăng Thụ là tổ chi 2 ngành 2
- Nguyễn Đăng Luyện là tổ chi 3 ngành 2
3- Đức tổ Nguyễn Đăng Luyện đời thứ 7 (bảy) là tổ chi 3 ngành 2 sinh được một con trai là đức tổ Nguyễn Duy Viên (thường gọi là Đỗ Viên), đời thứ 8 (tám) và có một cháu trai là đức tổ Nguyễn Duy Hàn (thường gọi là Đồ Hàn), đời thứ 9 (chín).
Đức tổ Nguyễn Duy Hàn, đời thứ 9 (chín) sinh được 3 con trai thuộc đời thứ 10 (mười) là các đức tổ:
- Nguyễn Duy Tốn là tổ phân chi 1 (chi 3, ngành 2)
- Nguyễn Duy Khuông là tổ phân chi 2 (chi 3, ngành 2)
- Nguyễn Duy Tuế là tổ phân chi 3 (chi 3, ngành 2)
4- Đức tổ Nguyễn Duy Tốn, đời thứ 10 (mười)
Tổ phân chi 1 (chi 3, ngành 2) là Tổ trực tiếp với gia tộc.
a- Ngày, tháng, năm sinh và mất của đức tổ ông, đức tổ bà chưa xác định được.
b- Phần mộ:
- Mộ đức tổ ông: xây hình vuông trên gò nổi (dải đất hình () tại nghĩa trang xã (Mục Nang).
- Mộ đức tổ bà: Xây hình vuông trên thửa ruộng giáp thổ cư gia tộc, phía Bắc xóm Đồng Xích (nay là xóm 1) gần mộ con trai út Nguyễn Pho.
Hai đức tổ sinh được 6 người con trai thuộc đời thứ 11 (mười một) là các cụ tổ:
- Nguyễn Triển, con trưởng. Theo truyền miệng từ xưa là cụ tòng quân, xung trận và sau không rõ tông tích.
- Nguyễn Hậu, con thứ 2, sinh được một con gái là cụ Nguyễn Thị Bớp (đới thứ 12) theo chồng lập nghiệp, sau không rõ tin tức.
- Nguyễn Trần, con thứ 3, sinh được 2 con trai là các cụ Nguyễn Gián và Nguyễn Vòng (đời thứ 12) chuyển cư tới Ninh Giang, tỉnh Hải Dương lập nghiệp và đã hàng chục năm không có liên lạc với họ tộc.
Đất, nhà ở của gia đình cụ tổ là khu vực nền nhà ông Nguyễn Vĩnh (đời thứ 13) và sân từ đường gia tộc ngày nay.
- Nguyễn Yên, con thứ 4, sinh ra cụ Nguyễn Văn Nguyên (đời thứ 12) và có 2 cháu trai là các ông Nguyễn Bao (còn gọi là Mao), Nguyễn Bướm (đời thứ 13), 2 cháu gái là các bà Nguyễn Thị Khuyên, Nguyễn Thị Nhẫn (đời thứ 13)
Ông Nguyễn Bao có một con trai là Nguyễn Hào (đời thứ 14) chuyển cư tới xã Tân Thái, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên lập nghiệp. Nguyễn Hào đã chết đuối ở hồ Núi Cốc (1979).
Ông Nguyễn Bướm có 3 con gái là Nguyễn Thị Bấm (đời thứ 14) sinh sống tại nước Pháp, Nguyễn Thị Chí và Nguyễn Thị Quý (đời thứ 14) sinh sống và lập nghiệp ở quê nhà.
- Nguyễn Ngách: con thứ 5, sinh ra cụ Nguyễn Hữu Tế (1880 - 1939) đời thứ 12 và có 3 cháu trai thuộc đời thứ 13 là các ông Nguyễn Hữu Thế (1898 - 1938), Nguyễn Hữu Thăng (mất năm 1926), Nguyễn Hữu Uy (mất năm 1939).
Ông Nguyễn Hữu Thế có 5 người con: Nguyễn Thị Hoa (1920), Nguyễn Thị An Huệ (1925 - 1998), Nguyễn Viết Phả, thường gọi là Nguyễn Hữu Tề (1927 - 1981), Nguyễn Thị Cậy ( ) và Nguyễn Thị Hồng ( ) thuộc đời thứ 14.
- Nguyễn Pho: con thứ 6 (xem phần thứ hai: Gia tộc Nguyễn Pho Tự Nguyễn Phu)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét