Thứ Tư, 18 tháng 7, 2007

III- Nguyễn Lạc Tức Nguyễn Chuyên

1- Là con thứ ba, sinh năm 1910. Mất lúc 10 giờ ngày 25 tháng 6 năm 1992 tức ngày 25 tháng 5 năm Nhâm Thìn tại quê.
2- Cụ bà Phạm Thị Đanh, sinh năm 1908. Mất lúc 8 giờ ngày 10 tháng 2 năm 1990 tức ngày 15 tháng Giêng năm Canh Ngọ, là con gái cụ cố Phạm úc (thường gọi là cụ Thôn úc) ở xóm Hậu Nang, cùng làng.
3- Phần mộ: Hai cụ hợp táng, xây hình chữ nhật trong khu mộ của gia tộc tại nghĩa trang xã (Mục Nang), hướng Đông Nam, nhìn ra đường liên xã và cánh đồng Tiền Ma.
Hai cụ đều xuất thân gia đình nông dân nghèo và hai thân phụ đều là hội viên "Hội giáp dân đinh" năm 1930.
Hai cụ lúc nhỏ được đi học nhưng dở dang, chưa đọc thông, viết thạo.
Sau khi lập gia đình riêng, hai cụ chung sống trong ngôi nhà gỗ lim 5 gian, mái rạ hướng Đông Nam (phía trước là sân Từ đường gia tộc ngày nay) của cha mẹ cho.
Hai cụ có 7 người con (3 trai, 4 gái) là đời thứ 4 trong gia tộc và là đời thứ 14 họ Nguyễn:
Họ tên
Năm sinh
Ghi chú
Nguyễn Cần
1928

Nguyễn Hữu Khánh
1931
Mất 28/4/1992 (26/3 Nhâm Thìn)
Nguyễn Thái Hoà
1935
Hy sinh 16/2/1954 (14/1 Giáp Ngọ là liệt sĩ trong kháng chiến chống Pháp
Nguyễn Thị Vân
1937

Nguỹen Thị Tâm
1940

Nguyễn Thị Mùi
1943

Nguyễn Thị Hương
1948

Hai cụ làm ruộng và chắp gai, đan vó... để sinh sống. Ruộng đất cày cấy ban đầu chỉ có vài sào thuê, trả tô làng Phú Mỹ. Sau này cả thuê và tậu tư điền có khoảng 3 mẫu. Ngoài ra, cụ bà còn đi chợ phiên, chợ chiều trong làng và làng bên bán gai, vó..., chè xanh.
Khi có vốn liếng khá hơn, hai cụ đã tu bổ cơ ngơi, tậu vườn, ruộng và góp cổ phần cùng anh em trong gia đình lập Công ty Tư Nguyên (sau đổi tên là Công ty Phổ Niệm) buôn bán, gai, vó, chài lưới. Cụ ông là một thành viên tích cực của công ty, chủ yếu đảm nhiệm những công việc quản lý mua bán tại chỗ nhưng đôi lúc cũng đi giao, nhận hàng ở nơi xa.
Thời thanh niên, cụ ông là người hăng hái, nhanh nhẹn, sớm nhận thức được những biến động của xã hội, tiếp thu được những cái mới. Những năm 1927 - 1929, Chi hội Thanh niên cách mạng đồng chí Hội ở làng ra đời. Cụ được các hội viên Phạm Quang Lịch, Phạm Đình Tuấn (tức Giáo Đích), Phạm Đức Lợi tuyên truyền, giác ngộ cách mạng và giao các công việc liên lạc, canh gác, tuần đường, dẫn hội viên đến nơi họp v.v... để thử thách.
Tháng 9 năm 1928, cụ được kết nạp vào Hội cùng các cụ Phạm Bậu và Nguyễn Quang Nhữ.
Tháng 9 năm 1929, Chi hội thanh niên cách mạng đồng chí Hội giải thể và chi bộ cộng sản thành lập. Một số hội viên trở thành đảng viên cộng sản. Số hội viên còn lại, trong đó có cụ là đoàn viên thanh niên cộng sản. Cụ được dự lớp huấn luyện Luận cương chính trị 1930 (Luận cương cách mạng tư sản dân quyền) cùng với các đảng viên cộng sản của chi bộ và các đoàn viên thanh niên cộng sản khác do đồng chí Trần Quang Tặng (tức Khổng) quyền bí thư Xứ uỷ huấn luyện.
Cụ đã được chi bộ giao và hoàn thành tốt việc rải truyền đơn trong cuộc mít tinh Tân Mùi (16/12/1931) ở chợ Cao Mại và nhiều nơi khác, tham gia hội "Giáp dân đinh" đấu tranh chống tệ nạn, hủ tục chia xôi thịt của bọn cường hào trong làng (29/8/1928), đòi vay thóc của địa chủ chia cho nông dân nghèo (4/1930) và tham gia hỗ trợ đoàn biểu tình Duyên Hà (5/1930)...
Thời kỳ 1930 - 1933, địch ra sức đàn áp, bắt bớ tù đày các chiến sĩ cách mạng ở nhiều nơi và cả ở Nam Huân. Cuộc đấu tranh với địch rất quyết liệt. Sau năm 1933, sự hoạt động của các tổ chức cách mạng ở làng phải rút vào bí mật và tạm lắng xuống.
Thời kỳ Mặt trận bình dân (1936 - 1939), một số chiến sĩ cách mạng ra tù đã tập hợp sinh hoạt và hoạt động với nhau trong các hội ái hữu tương tế của nông dân giống như hội "Giáp dân đinh" cũ. Cụ cũng tham gia tổ chức này.
Năm 1940, tổ chức cách mạng giao cho cụ ra tranh cử Hội đồng tộc biểu trong làng. Cụ trúng cử và được bầu làm Thư ký hộ lại chuyên việc đăng ký khai sinh, khai tử, giá thú cho tới ngày Cách mạng tháng 8 năm 1945.
Cách mạng tháng 8 năm 1945, cụ là hội viên Hội nông dân cứu quốc; Sau được bầu vào Hội đồng nhân dân xã, uỷ viên tư pháp, tiếp theo là phó hội trưởng Hội nông dân cứu quốc xã, công an điều tra huyện Kiến Xương, Uỷ viên ban quản trị, ban kiểm soát hợp tác xã Tiền Phong, trưởng ban kiến thiết xã, phụ trách chăn nuôi hợp tác xã nông nghiệp.
Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, gia đình cụ đã nhường nhà ở, giúp đỡ lương thực, thực phẩm cho thương binh, cán bộ, bộ đội trú ngụ công tác và chiến đấu với kẻ địch, bảo vệ nhân dân, làng mạc.
Từ khi giác ngộ, được đứng trong các tổ chức cách mạng của Đảng lãnh đạo cho đến lúc tuổi cao, sức yếu, cụ luôn luôn ý thức rõ trách nhiệm của người chiến sĩ cách mạng đối với Đảng và Tổ quốc. Cụ đã vượt qua ác liệt, khó khăn, nguy hiểm trong thời kỳ bí mật, kháng chiến chống Pháp và sau này để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Cụ trung thành với cách mạng, với tổ quốc. Cụ là người hiền hậu, trầm lặng, kín đáo, quan hệ đoàn kết tốt với mọi người.
Đảng bộ xã đã đánh giá, kết luận:
"Cụ trung thành với Đảng và rất kiên trì phấn đấu theo lý tưởng Cộng sản".
Đảng bộ xã đã kết nạp cụ vào Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) ngày 27 tháng 6 năm 1960.
Các con của cụ đã noi gương và theo cha làm cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Từ ngày đầu Cách mạng tháng 8 năm 1945, các con của cụ đã tham gia các đoàn thể cách mạng, hoạt động trong các lĩnh vực quân sự, y tế, giáo dục.
Ba con trai đều sớm vào quân đội nhân dân Việt Nam chiến đấu với kẻ thù trong hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc.
- Nguyễn Cần vào Vệ quốc đoàn sau khởi nghĩa tháng 8 năm 1945 liên tục 45 năm quân ngũ chiến đấu nhiều chiến dịch, nhiều chiến trường từ đồng bằng sông Hồng đến miền Đông Nam Bộ, từ Việt Bắc, Tây Bắc đến Tây Nguyên, từ chiến dịch giải phóng Thái Bình, chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, Điện Biên Phủ trên không đến giải phóng Tây Nguyên, Sài Gòn - Gia Định (chiến dịch Hồ Chí Minh), chiến dịch giải phóng Cămpuchia lập được công tích vẻ vang, được tặng thưởng nhiều Huân chương, Huy chương, huy hiệu. Khi được nghỉ hưu, Nguyễn Cần vẫn còn mang trong người di chứng hậu quả chiến tranh ác liệt, tàn khốc của đế quốc Mỹ.
- Nguyễn Hữu Khánh chiến đấu suốt trong cuộc kháng chiến chống Pháp, hoàn thành tốt nhiệm vụ của người "Bộ đội cụ Hồ" và được khen thưởng xứng đáng. Sau này, Nguyễn Hữu Khánh được xuất ngũ trong đợt giảm quân số thời bình trở về Thái Bình tiếp tục công tác trong ngành y tế.
- Nguyễn Thái Hoà vào bộ đội ngày 5 tháng 8 năm 1950, thời kỳ kháng chiến chống Pháp ác liệt, đã chiến đấu quả cảm trong mũi xung phong, đánh giáp lá cà trận tập kích địch ở thôn Thanh Khê, xã Thanh Hải, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam và hy sinh anh dũng lúc 4 giờ sáng ngày 16 tháng 2 năm 1954; được tặng thưởng "Bằng Tổ quốc ghi công liệt sĩ" và Huân chương chiến sĩ hạng hai (Quyết định số 1290 ngày 28/2/1954).
Ba con trai, một con gái và hai con rể của cụ là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sự cống hiến cho Tổ quốc của gia đình cụ rất lớn, góp phần làm vẻ vang cho gia tộc và dòng họ.
Đảng và Nhà nước ghi công và tặng thưởng cụ:
- Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ (Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký)
- Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng ba
- 6 lần cấp huyện khen và là chiến sĩ thi đua năm 1968.

Không có nhận xét nào: