Thứ Năm, 19 tháng 7, 2007

Cụ cố bà: Phạm Thị Nuôi

Sinh năm 1880
Là con gái đầu cụ tổ Phạm Đạc ở xóm Hậu Ma, làng Nam Huân Nang, tổng Nam Huân, phủ Kiến Xương, tỉnh Thái Bình (nay là xóm 2, xã Đình Phùng, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình).
Mất ngày 22 tháng 6 năm 1956 (tức ngày 14 tháng 5 năm Bính Thân) tại quê.
Phần mộ: Hai cụ cố hợp táng, xây hình tròn trong khu mộ gia tộc tại nghĩa trang xã (Mục Nang) nhìn ra đường liên xã và cánh đồng Tiền Ma.
Hai cụ cố sinh được 5 con trai và 1 con gái là đời thứ 3 trong gia tộc đồng thời là đời thứ 13 (mười ba) họ Nguyễn:
Họ tên
Năm sinh
Ghi chú
Nguyễn Thư
1904
Tức Nguyễn Vĩnh
Nguyễn Lễ
1908
Tức Nguyễn Trường (Nguyễn Xuân Trường)
Nguyễn Lạc
1910
Tức Nguyễn Chuyên
Nguyễn Truyền
1912
Tức Nguyễn Nhân
Nguyễn Huy Chuyển
1916
Nguyễn Thị Gái
1922
Hai cụ đều là con của gia đình nông dân nghèo, đi làm thuê kiếm sống hàng ngày.
Cụ ông có một em gái là cụ Nguyễn Thị Hiền, thường gọi là Hến tức cụ bà Phạm Rương (cụ Lý Rương làng Cao Bạt Nang).
Cụ bà có một em gái là cụ bà Phạm Đậu (cụ Bạ Đậu) cùng làng.
Cụ ông gian truân, vất vả từ thuở nhỏ; chưa đầy 10 tuổi phải làm lụng giúp đỡ cha mẹ và không được học hành chữ nghĩa như con cái của một số nhà quyền quí, giầu có trong làng, xóm.
Hai cụ sống chung với nhau từ khi có gia đình riêng, luôn luôn vui vẻ, hiền hoà; sớm, tối, nắng mưa, bão gió cùng cày cấy ruộng đồng kiếm hạt thóc, hạt ngô, củ khoai và chắp gai, đan lát ở nhà lúc nông nhàn. Hai cụ còn làm hàng xay, hàng xáo, buôn bán thóc gạo chợ gần, chợ xa; buôn bán gai, vó, chài, lưới hết xứ Đông đến xứ Đoài, hết tỉnh này đến tỉnh khác.
Hai cụ khéo léo kết hợp giữa việc cấy ruộng đồng với nghề thủ công và buôn bán để vừa có thóc, lúa, vừa có tiền làm vốn trong gia đình.
Hai cụ cùng nhau lao động, chăm sóc cha mẹ già, nuôi dạy con cái và xây dựng cơ nghiệp ngày một khá giả hơn. Các cụ đã tạo dựng được cơ nghiệp riêng cho từng người con.
Năm 1956, cụ bà mất. Cụ ông sống một mình, không muốn dựa vào con, cháu, vẫn lao động như xưa.
Cụ coi lao động không chỉ làm ra của cải mà còn là nếp sống hàng ngày, là rèn luyện nâng cao thể lực và là nguồn vui, kéo dài tuổi thọ. Ngoài 90 tuổi, cụ vẫn lao động, không lãng quên công việc đồng ruộng, chắp gai, đan vó... Ngay những ngày, tháng cuối đời, cụ vẫn chưa ngừng lao động. Tuy tuổi ngày càng cao nhưng cụ vẫn minh mẫn, vui vẻ. Cụ vĩnh biệt con cháu, họ hàng, làng xóm ra đi đúng kém 3 tháng đầy 100 tuổi. Cụ đại thọ.
Lúc sinh thời, cụ thường chỉ bảo các con trong lập nghiệp là: "Phải lấy việc cầy cấy ruộng đồng làm gốc và trong nhà phải giữ lấy nghề chắp gai, đan vó, chài, lưới là nghề phụ, đồng thời tần tảo buôn bán nơi gần, nơi xa. Làm ruộng phải có nhiều thóc lúa, không để thất thoát. Chắp gai, đan vó, chài, lưới phải đẹp, bền tốt, thích ứng với nhu cầu của khách hàng. Buôn phải tận gốc, bán phải tận ngọn và giữ chữ tín với khách hàng. Của cải làm ra phải ăn sẻn, để dành, phải biết tích cốc, phòng cơ".
Các con tuân theo lời cụ, đều xây dựng cơ nghiệp riêng tốt hơn. Nhà nào cũng có thóc, có tiền.
Cuối năm 1939, đầu năm 1940 cụ khởi xướng lập Công ty buôn bán gai, vó, chài lưới. Các con cùng cụ góp vốn. Công ty được đặt tên là Tư Nguyên. Người con trai thứ tư là ông Nguyễn Truyền (Nguyễn Nhân) làm giám đốc. Trụ sở Công ty ở trên thổ cư cụ Phạm Ngọc (tức cụ Bốn Ngọc) liền đường cái và chợ Nang cũ (trước cửa Đình Cao Bạt Nang và Chùa Nang) để thu mua, bán sản phẩm của bà con dân làng và của những người làng bên đến. Công ty còn có trụ sở giao dịch với khách hàng nơi xa ở phố Hàng Song thành phố Nam Định (Ban đầu ở số nhà 81, sau chuyển lên số nhà 102).
Sau này Công ty mở rộng cổ phần với những người cùng nghề kinh doanh ở trong làng và được đổi tên là Công ty Phổ Niệm (tên vị tổ nghề gai, vó, chài, lưới của làng). Ông Nguyễn Truyền (Nguyễn Nhân) vẫn làm giám đốc. Trụ sở Công ty được chuyển về quán đôi ở chợ Nang mới (cạnh thổ cư các ông Phạm Sửu, Phạm Môn). Trụ sở giao dịch ở thành phố Nam Định chuyển từ phố Hàng Song về phố Hàng Sắt.
Những năm 1943, 1944, nhu cầu mặt hàng gai, vó, chài lưới ở trong nước và nước ngoài ngày càng tăng. Ngoài việc thu mua tại nhà, tại chợ làng, Công ty còn phải lập xưởng đan vó, chài, lưới, làm dây gai khâu giầy... tại sân từ đường ngày nay để tăng sản phẩm đáp ứng kịp yêu cầu của khách hàng.
Công ty ra đời đã tạo được công ăn, việc làm cho đông người trong làng, đồng thời thu mua được sản phẩm của dân làng làm ra; khí thế chắp gai, đan vó, chài, lưới, những năm đó ở làng xóm nhộn nhịp hẳn lên. Đời sống các thành viên Công ty và dân làng khá lên rõ rệt. Khắp nơi đua tranh nhau làm nhà, xây sân, tu bổ đường đi, lối lại sạch đẹp, phong quang và hội hè đình đám vui vẻ. Các gia đình con cái của các cụ cũng khá giả hơn.
Tuy nhiên, sau năm đói ất Dậu (1945), những năm giặc Pháp tàn phá và thời kỳ cải cách ruộng đất, kinh tế của nhiều gia đình con cái cụ bị khủng hoảng trầm trọng, lao đao trong cuộc sống hàng ngày. Có gia đình không còn lương thực, tiền bạc, túng thiếu mọi bề. Các cháu đương cắp sách đến trường phải ngừng học tập, cùng cha mẹ lo kiếm sống từng bữa, từng ngày.
Song với truyền thống lao động của gia tộc, các con, cháu cụ đã thắt lưng, buộc bụng, chịu đựng gian khổ, vất vả, khó khăn, ráng sức làm lụng, sớm khôi phục ổn định đời sống trong từng gia đình. Các cháu lại cắp sách đến trường học hành, học cao hơn, có kiến thức, trình độ học vấn hơn ông, cha, đủ điều kiện tham gia công việc của xã hội và đất nước.
Cụ rất vui mừng trước cảnh đại gia đình đã hồi phục như xưa. Cụ đã nói: "Gia đình ta từ khổ lên khá, từ thịnh lại gặp suy. Suy chỉ tạm thời. Người có tâm, có đức, có lao động thì suy sẽ qua, thịnh sẽ trở lại".
Cụ không chỉ lo xây dựng cơ nghiệp gia đình mình mà còn chăm lo những việc thiện, việc công đức, đóng góp, cúng tiến tiền bạc, thóc lúa xây dựng đường sá, chợ búa, tu bổ từ đường, mua sắm đồ thờ tự v.v...
Năm đói ất Dậu (1945), cụ kiên quyết không tổ chức lễ mừng thọ đã chuyển số tiền 500 đồng tiền Đông Dương tới vị Trưởng họ Nguyễn Vần để san sẻ một chút nhỏ với bà con họ hàng trong khi đói kém. Đấy là suy nghĩ sau xa từ đáy lòng cụ: "Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng", nhưng lúc này lại là người trong một dòng tộc, một huyết thống càng phải thương nhau, chia sẻ vui, buồn, đói, no, sống chết với nhau, không thể ngoảnh mặt làm ngơ trước sự đói khổ của họ hàng. Một vị trong họ Nguyễn xúc cảm trước lòng từ thiện của cụ, đã ca ngợi cụ bằng bài diễn ca "Tấm lòng vàng". Trong đó có những câu:
"... Sáu trăm([1]) giúp họ (ất Dậu 1945) giữa năm hiểm nghèo.
Tình bầu thương bí deo neo
Bọc đùm trong lúc đói nghèo quý sao?
Lòng vàng - máu đỏ nghĩa cao
Trắng răng cho đến bạc đầu không quên".
Từ tầng lớp lao động, nghèo khổ ở nông thôn, cụ từng nếm đủ mùi đói, no, cay đắng, uất ức, túng thiếu của người dân mất nước trong xã hội cũ. Một lần thiếu một suất thuế nộp thay cho người anh họ, cụ bị bọn Lý trưởng cùm kẹp, đánh đập thậm tệ. Cụ rất thông cảm với những người cùng cảnh ngộ.
Khi quê hương có phong trào cách mạng và được Đảng giác ngộ, cụ một lòng theo Đảng. Năm 1930, cụ hoạt động trong hội "Giáp dân đinh", một tổ chức cách mạng của nông dân do Đảng lãnh đạo, đã tham gia phong trào đòi vay thóc của địa chủ, chia cho nông dân nghèo. Trong vụ ấy cụ bị thực dân Pháp bắt và kết án 6 tháng tù giam, 3 năm quản thúc chính trị. Tuy sau khi ra tù bị địch theo dõi, khủng bố nhưng cụ vẫn tiếp tục hoạt động. Bốn con trai lớn của cụ đều là hội viên "Hội giáp dân đinh". Trong những tháng, năm hoạt động đấu tranh với cường quyền, áp bức ở làng, xóm, các con trai đã sát cánh cùng cụ tham gia phong trào ấy.
Con trai thứ hai Nguyễn Trường cũng bị thực dân Pháp bắt, cùng ngồi tù ở nhà pha (trại giam) Thái Bình với cụ. Con trai thứ ba Nguyễn Chuyên là hội viên thanh niên cách mạng đồng chí Hội, treo cờ Đảng, rải truyền đơn và canh gác bảo vệ các cuộc mít tinh do Đảng tổ chức. Con trai thứ tư Nguyễn Nhân cùng cha và các anh tham gia phá kho thóc của địa chủ, chia cho nông dân nghèo và sau đó ở trong đội tự vệ tích cực luyện rèn và dạy võ cho tự vệ bí mật của Đảng bộ địa phương. Con trai thứ năm Nguyễn Huy Chuyển lúc còn ít tuổi xung phong làm liên lạc cho tổ chức Đảng địa phương trong thời kỳ bí mật, cũng bị địch bắt khi đi tiếp tế ăn uống cho những người tham gia phong trào phá kho thóc của địa chủ nhưng trốn thoát được và sau này tham gia tổ chức nông dân ái hữu.
Đến Cách mạng tháng 8 năm 1945, trong đội ngũ quần chúng do Đảng lãnh đạo khởi nghĩa giành chính quyền ở huyện cũng có cả cụ và con, cháu trong gia đình.
Tấm gương hoạt động cách mạng của cụ đã soi sáng trong gia đình. Các con, cháu, chắt trong nhà theo chân cụ đều đi theo Đảng, tham gia cách mạng. Từ ngày đầu cách mạng tháng 8 năm 1945, các con, cháu cụ hăng hái hoạt động. Người thì vào Vệ quốc đoàn đi chiến đấu. Người ở lại quê hương tham gia công tác chính quyền hoặc đoàn thể cách mạng.
Các gia đình con cái cụ là nơi trú ngụ, giúp đỡ cán bộ, thương binh, bộ đội chiến đấu trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Trong cả hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc, các con, cháu cụ đều công tác, chiến đấu ở mọi miền đất nước. Người thì ở ngành kinh tế, thương mại, y tế, giáo dục, người thì ở ngành quân sự. Rất đông con cháu chiến đấu và công tác trong quân đội nhân dân Việt Nam. Có người liên tục 45 năm trong quân đội. Con, cháu, chắt nội, ngoại, trai, gái, dâu, rể của cụ là đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam trên 40 người; một số người đã 50 và gần 60 tuổi Đảng. Trên các chiến trường từ đồng bằng sông Hồng đến đồng bằng sông Cửu Long, từ núi rừng Việt Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên, Lào, Cămpuchia; trong các chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, Điện Biên Phủ trên không, giải phóng Quảng Trị, Tây Nguyên, Sài Gòn, các cháu, chắt cụ vững vàng chiến đấu trước quân thù, không có ai chao đảo, bỏ ngũ, đào ngũ hoặc vi phạm kỷ luật quân đội, kỷ luật chiến trường. Mọi người đều hoàn thành tốt nhiệm vụ ở vị trí công tác của mình và được khen thưởng xứng đáng. Nhiều người đã cống hiến gần hết cuộc đời cho tổ quốc, cho nhân dân và giữ gìn trong sáng đạo đức, phẩm chất cách mạng. Có người chiến đấu anh dũng, quả cảm, lập công hy sinh trên chiến trường như cháu nội liệt sĩ Nguyễn Thái Hoà (trong kháng chiến chống thực dân Pháp), cháu nội liệt sĩ Nguyễn Hưu (trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước) và con rể liệt sĩ Phạm Ruy (trong kháng chiến chống thực dân Pháp). Cháu nội liệt sĩ Nguyễn Thái Hoà gửi tấm thân ở nơi chiến địa tới nay (năm 2002) đã gần 50 năm, vẫn chưa tìm được hài cốt để quy tụ về nghĩa trang liệt sĩ hoặc về quê hương gần gũi với tổ tiên, gia đình, làng xóm.
Trong gia đình, cụ là một người cha, người ông mẫu mực, rất hiền hoà, nhân từ, độ lượng, thương con, cháu. Cụ và các cháu luôn luôn chan hoà. Cụ chẳng bao giờ có lời nói nặng nề với các cháu và phân biệt đối xử nội, ngoại. Cụ thường nhắc nhở các bậc cha mẹ trong nhà không nên đánh, chửi, trút hờn dận với con trẻ. Cụ hay gần gũi kể chuyện cổ tích, răn bảo các cháu. Các cháu rất quí mến, ngoan ngoãn vâng lời dạy bảo của cụ. Cụ là trung tâm đoàn kết trong gia đình. Khi có sự bất hoà trong nhà, cụ tìm cách hoà giải không để kéo dài và thường giúp đỡ, động viên con cái lúc khó khăn, rủi ro. Cụ luôn luôn mong muốn con, cháu không túng thiếu, đói khổ và cũng chẳng bao giờ nghĩ đến sự báo đáp của con, cháu đối với mình.
Trước khi vĩnh biệt cõi trần, cụ còn đem các thứ quà biếu trước đây tích góp, chia cho các con mỗi người một thứ. Cụ giao 1.200 đồng (một nghìn hai trăm đồng) tiền tiết kiệm và 41 chiếc vó (bốn mươi mốt), sản phẩm của cụ làm ra lúc cuối đời, đem bán để lo tang lễ cho cụ. Cụ không muốn con, cháu phải đóng góp tốn kém. Đến giờ chót, cụ vẫn thương con, cháu.
Cuộc đời cụ là như thế. Cụ chỉ là một nông dân bình dị, cần cù lao động, chăm lo cho gia đình, con cháu ấm no, thịnh vượng, học hành tử tế; chăm lo việc thiện, công đức và việc đất nước. Cụ chẳng làm một chức vị gì, chẳng đè nén, ức hiếp ai.
Lý tưởng và ước vọng hạnh phúc suốt đời của cụ đã thành hiện thực:
- Đất nước đã hoàn toàn độc lập, thống nhất.
- Các con cháu trưởng thành, có cơ nghiệp riêng, đời sống ấm no, học hành tử tế.
- Các con cháu tích cực hoạt động cách mạng, đã hoàn thành tốt nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước, quân đội giao cho, lập được công và giữ gìn trong sáng đạo đức, phẩm chất cách mạng.
- Được Đảng và Nhà nước quan tâm khích lệ, con cháu, bạn bè cũng như họ hàng, làng xóm quý trọng.
Cụ luôn luôn là tấm gương sáng trong gia tộc. Các con, cháu vô cùng thương nhớ, kính trọng cụ và tôn vinh cụ: "Người cha, người ông Đại Thọ, Đại Thịnh, Đại Phúc".
Cuộc đời và thân thế sự nghiệp của cụ đã được các báo Quân khu Tả Ngạn số 290 ngày 20/1/1976, báo Giải Phóng, bộ mới số 174 ngày 12/2/1976, báo Cứu quốc số 3828 ngày 10/12/1976 và Báo ảnh Việt Nam số 218/2/1977 đăng bài, ảnh ca ngợi.
Thật vinh quang và vô cùng hạnh phúc với gia tộc.
Hình ảnh cụ luôn luôn trong tâm trí của các con cháu.


([1]) 500 đồng tiền Đông Dương, không phải 600 đồng.

Không có nhận xét nào: