Thứ Tư, 18 tháng 7, 2007

II- Nguyễn Lễ Tức Nguyễn Trường

(Danh tự: Nguyễn Xuân Trường)
1- Là con thứ hai, sinh ngày 02 tháng 6 năm 1908. Mất lúc 16 giờ 15 phút ngày 21 tháng 12 năm 1999 tức ngày 14 tháng 11 năm Kỷ Mão tại quê. Cụ có 2 cụ bà.
2- Hai cụ bà:
a- Cụ bà cả: Phạm Thị Triển, sinh năm 1906, là con gái cụ cố Phạm Nhị, xóm Trung Nang, cùng làng. Mất ngày 20 tháng 2 năm 1982 tức ngày 25 tháng 2 năm Nhâm Tuất.
b- Cụ bà hai: Nguyễn Thị Chụi (tên khai sinh Nguyễn Thị Lam), sinh năm 1912 là con gái cụ cố Nguyễn Hoạch (thường gọi là cụ Cai Hoạch) ở làng Bạt Trung Nội (sau là thôn Cao Trung - nay là xóm 1, xã Đình Phùng, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình).
Mất ngày 16 tháng 11 năm 2000 tức ngày 21 tháng 10 năm Canh Thìn.
3- Phần mộ:
- Mộ cụ ông và cụ bà hai: nay hung táng tại nghĩa trang xã (Mục Nang) và sau khi cải táng sẽ di chuyển vào khu mộ cát táng của gia tộc ở nghĩa trang xã (Mục Nang).
- Mộ cụ bà cả: đặt trong khu mộ của gia tộc ở nghĩa trang xã (Mục Nang).
Sau khi lập gia đình riêng, cụ ông và cụ bà cả chung sống trong ngôi nhà gỗ xoan 5 gian, mái rạ, hướng Bắc (trên nền nhà ngày nay). Cuối năm 1942, gia đình có thêm cụ bà hai. Cụ bà hai ở chung lúc ban đầu, cùng làm lụng; sau chuyển ra sinh sống, làm lụng riêng ở ngôi nhà gianh, tường đất trên thổ cư của người anh họ Nguyễn Nhật nhượng bán cho.
Các cụ có 14 người con (3 trai, 11 gái) là đời thứ 4 trong gia tộc (Đời thứ 14 họ Nguyễn):
Các con cụ bà cả:
Họ tên
Năm sinh
Ghi chú
Nguyễn Thị Nụ
1927

Nguyễn Bái
1931
Mất 14-6-1987 (tức 19-5 Đinh Mão)
Nguyễn Thị Hoa
1935
Mất 31-10-1994 (Tức 27-9 Giáp Tuất)
Nguyễn Thị Nở
1937

Nguyễn Thị Huê
1939

Nguyễn Thị Cúc
1942

Nguyễn Xuân Chúc
1944

Nguyễn Thị Huệ
1945

Nguyễn Thị Nga
1948
Mất 2-6-2002 (22-4 Nhâm Ngọ)
Nguyễn Mười
1951


Các con cụ bà hai:
Họ tên
Năm sinh
Ghi chú
Nguyễn Thị Lan
1944

Nguyễn Thị Lát
1946

Nguyễn Thị Thắm
1949

Nguyễn Thị Tươi
1956

Cụ ông và cụ bà cả sớm ở riêng. Vốn liếng ban đầu không đáng kể. Hai cụ chỉ cày cấy một vài sào ruộng và chắp gai, đan vó để sinh sống. Ruộng đất cày cấy hàng năm phải thuê làng Phú Mỹ trả tô. Ngoài ra, cụ bà còn buôn bán gai, vó ở chợ phiên trong làng.
Với sức lao động của mình, hai cụ đã dần dần gây dựng cơ nghiệp khá giả hơn.
Cuối năm 1939, đầu năm 1940, hai cụ dỡ ngôi nhà cũ chuyển dựng ở nền mới (quay lưng ra cánh đồng), xây ngôi nhà 5 gian gỗ lim, lợp ngói trên nền cũ, xây bếp, sân, chuồng chạn chăn nuôi. Hai cụ còn góp vốn với anh em trong gia đình lập Công ty Tư Nguyên buôn bán gai, vó, chài, lưới. Cụ ông tích cực hoạt động cho công ty, đi giao dịch, nhận, giao hàng nơi này, nơi khác. Công việc ruộng đồng ở nhà tuy cụ bà và các con gái lớn đảm nhiệm nhưng cụ vẫn quan tâm.
Sau khi chuyển đến nơi ở mới, cụ bà hai cũng chỉ cày cấy vài sào ruộng, chắp gai, đan vó... để sinh sống và nuôi nấng con cái. Tuy cụ ông và cụ bà có quan tâm nhưng cụ bà hai vẫn vất vả, khó khăn. Với đức tính cần cù, siêng năng, chịu khó làm lụng, cụ vượt qua được và nuôi con cái trưởng thành.
Cụ ông lúc tuổi nhỏ được đi học cả quốc ngữ, chữ hán. Cụ học chữ hán nhiều hơn, có khả năng dịch sách, làm thơ chữ hán, viết được văn tế chữ hán. Cụ am hiểu đạo Khổng nho, biết thể thức tế lễ, cúng bái thời phong kiến.
Cụ có kiến thức, sớm hiểu biết thời thế biến động. Năm 1930, cụ là hội viên "Giáp dân đinh", một tổ chức cách mạng của nông dân địa phương do Đảng lãnh đạo; cùng tham gia phong trào đấu tranh sự áp bức, đè nén, bóc lột, và những bất công, hủ tục v.v... của bọn hương lý, cường hào, tham nhũng.
Ngày 12 tháng 4 năm 1930, cụ đã cùng dân làng, cha và anh em trong gia đình tham gia phong trào "nông dân đòi vay thóc địa chủ" của Đảng bộ địa phương tổ chức và lãnh đạo. Trong vụ vay thóc của địa chủ Phạm Song (Bát Song), cụ là một trong những người tiên phong, hăng hái đấu tranh đòi vay thóc, chia cho nông dân nghèo. Đế quốc Pháp và bọn tay sai đưa binh lính về đàn áp. Cụ bị bắt và kết án tù giam. Cụ cùng ngồi tù với cha tại nhà pha (trại giam) Thái Bình. Khi hết hạn tù giam, chúng quản thúc cụ 3 năm tại làng. Mỗi khi cụ ra khỏi làng phải đến trình báo với lý trưởng làng. Sau đó, cụ chỉ chăm lo việc cày cấy ruộng đồng và buôn bán.
Sau ngày khởi nghĩa tháng 8 năm 1945, cụ được Đảng và Mặt trận Việt Minh giao làm Trưởng ban quân sự tiểu khu Nam Thịnh (bao gồm các làng thuộc 2 tổng Nam Huân và Thịnh Quang). Cụ vào Hội Nông dân cứu quốc ở làng và hoạt động công tác đoàn thể, phụ trách các công việc tăng gia sản xuất, thủy lợi v.v... của thôn, làng.
Đến kháng chiến toàn quốc chống Pháp, cụ vẫn hoạt động công tác đó. Gia đình cụ thường xuyên là nơi trú ngụ của cán bộ, thương binh, bộ đội về làng công tác, chiến đấu với địch để bảo vệ dân, làng xóm. Cụ đã nhường nhà ở, giúp đỡ lương thực, thực phẩm cho cơ quan và bộ đội.
Năm 1949, con trai Nguyễn Bái xung phong tòng quân chiến đấu với kẻ thù. Nguyễn Bái đã qua các đơn vị chiến đấu chống Pháp và xuất ngũ khi giảm quân số thời bình. Nguyễn Bái tiếp tục tham gia các hoạt động công tác đoàn thể và xã hội ở đường phố quận Hai Bà Trưng thành phố Hà Nội, là nơi cư trú mới.
Đến kháng chiến chống Mỹ cứu nước, một con gái và một con trai khác vào quân đội nhân dân Việt Nam. Nguyễn Thị Cúc làm quân y sĩ và Nguyễn Xuân Chúc công tác, chiến đấu ở Quân chủng Phòng không - Không quân.
Những người con khác của cụ trừ số ít ở lại quê làm ruộng còn đều thoát ly công tác ở cơ quan, xí nghiệp, công trường... của nhà nước. Hai con trai và hai con rể là đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam.
Trên từng vị trí, lĩnh vực công tác Nhà nước, Quân đội, các con cụ đều hoàn thành tốt nhiệm vụ và được khen thưởng xứng đáng.
Cụ tự hào là cha, con trong gia đình đã cống hiến cho Tổ quốc, cho nhân dân, góp phần chống ngoại xâm giải phóng dân tộc, bảo vệ và xây dựng đất nước. Cụ đã được Chính phủ tặng Bằng khen có thành tích bảo vệ thương binh trong kháng chiến chống Pháp.
Trong cải cách ruộng đất, cụ cũng bị đấu tố, quy là địa chủ kháng chiến. Gia đình lâm vào cảnh vất vả, lao đao về đời sống, đồng thời mối quan hệ trong gia đình không được ổn định. Sau cải cách ruộng đất gia đình được sửa sai và trả lại thành phần trung nông.
Cụ là người đứng mũi, chịu sào đã nhanh chóng khôi phục ổn định cuộc sống của gia đình, việc học hành của con cái và giải quyết mối bất hoà trong nhà.
Cuộc sống trong nhà được sớm ổn định. Mối bất hoà cũng dần dần giải quyết trở lại bình thường.
Các con cháu của cụ đều có gia đình, cơ nghiệp riêng; Có người làm ăn phát đạt.
Đó là điều vui mừng đối với cụ. Cụ đã thanh thản với tuổi già và đại thọ 92 tuổi.

Không có nhận xét nào: