Thứ Năm, 19 tháng 7, 2007

PHẢ KÝ

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
_______________________

Phả ký

Gia tộc

Nguyễn Pho tự Nguyễn Phu
Đời thứ XI (Mười một)
Họ Nguyễn (Nam huân nang)
Đình Phùng - Kiến Xương - Thái Bình




Biên soạn:
Nguyễn Viết Vy
- 2002 -







Lời nói đầu

Mỗi đất nước, dân tộc đều có sử sách ghi chép các chế độ xã hội, chính trị, kinh tế, văn hoá, quân sự; các anh hùng, danh nhân, truyền thống dựng nước, giữ nước... qua các thời kỳ để đời đời con cháu biết được và tự hào với thân thế, sự nghiệp, công lao của tổ tiên, quyết tâm xây dựng, bảo vệ tổ quốc mình.
Mỗi dòng họ, mỗi gia tộc cũng phải có sử sách của mình. Sử sách của dòng họ và gia tộc gọi là Phả Tộc, Phả gia tộc.
Từ xưa, gia tộc chúng ta chưa viết Phả. Nguyện vọng chung là gia tộc chúng ta phải có Phả.
Tuy chưa có kinh nghiệm và khó khăn nhiều mặt nhưng với lời di huấn của các bề trên trong gia tộc đã khuất, tôi là đích tôn tự xác định rõ trách nhiệm của mình:
"Thời trẻ phong trần ba cuộc chiến
Tuổi già thanh thản, một ước mơ
Dăm dòng câu chữ lưu truyền lại
Con, cháu đời sau biết sử nhà"
Dựa trên cơ sở lưu truyền miệng từ các đời trước, những tài liệu mà tôi đã viết và tham khảo, khai thác những tài liệu do các báo chí, anh chị em trong gia tộc viết về gia tộc chúng ta, tôi cố gắng tạo một cái nền, ghi chép lại thân thế, sự nghiệp, công lao của các tiền nhân trong gia tộc thành tập sách truyền thống, gọi là "Phả ký gia tộc Nguyễn Pho Tự Nguyễn Phu" để lưu giữ mãi mãi cho các đời sau.
Nội dung tập Phả Ký này có hai phần:
1- Sơ lược nguồn gốc và mối quan hệ với gia tộc
2- Nguồn gốc, thân thế, sự nghiệp, công lao của các đời trong gia tộc.
Gia tộc chúng ta đến năm 2002 (Thế kỷ XXI - Thiên niên kỷ thứ III) đã có đến đời thứ 6 (sáu) tức là đến đời thứ 16 (mười sáu) họ Nguyễn. Nay tôi mới tập trung viết 3 đời trên và lập danh sách các đời kế tiếp. Từ các đời thứ tư, thứ năm, từng người viết tự truyện tóm tắt để lưu giữ với Phả ký gia tộc.
Tôi đã viết bản thảo hai lần, đều sao gửi các gia đình thành viên của gia tộc để xin ý kiến đóng góp sửa chữa hoặc bổ sung nội dung. Hầu hết anh chị em trong gia tộc nhất trí với bản thảo lần thứ hai và chính thức chấp nhận là "Phả ký gia tộc Nguyễn Pho tự Nguyễn Phu".
Tập Phả Ký này cũng mới chỉ ghi viết được những sự kiện, những vấn đề cơ bản nhất của từng đời nên có thể chưa đáp ứng được nguyện vọng riêng của một số người trong gia tộc.
Tôi mong anh chị em trong gia tộc tiếp tục viết các tập phụ lục bổ sung những tình tiết của gia đình mình và các thế hệ nối tiếp sau này ghi viết về bản thân, gia đình mình làm cho Phả ký gia tộc phong phú.
Tôi chân thành cảm ơn toàn thể gia tộc đã đóng góp ý kiến và cung cấp thêm tư liệu để hoàn chỉnh tập Phả ký được chuẩn xác.


Hà Nội, ngày 19 tháng 8 năm 2002

Nguyễn Viết Vy

(Đích tôn cụ cố Nguyễn Phụ)

Phần thứ nhất

Sơ lược nguồn gốc và mối quan hệ với gia tộc
Nguồn gốc và mối quan hệ với gia tộc như sau:
1- Đức tổ Nguyễn Bảo Đức (Tên huý là Nguyễn Đắc) là khởi tổ (Đời thứ nhất) họ Nguyễn Nam Huân Nang sinh được một con trai là đức tổ Nguyễn Trường Thọ đời thứ 2 (hai) và có một cháu trai là đức tổ Nguyễn Chính Tâm đời thứ 3 (ba).
Đức tổ Nguyễn Chính Tâm đời thứ ba sinh được hai con trai thuộc đời thứ 4 (tư) là các đức tổ:
- Nguyễn Phúc Minh: ngành trưởng (ngành 1)
- Nguyễn Trực Niệm: ngành thứ (ngành 2)
2- Đức tổ Nguyễn Trực Niệm, đời thứ 4 là tổ của ngành thứ (ngành 2) sinh được một con trai là đức tổ Nguyễn Chính Hành, đời thứ 5 (năm) và có một cháu trai là đức tổ Nguyễn Mẫn Tiệp tức Nguyễn Văn Vui, đời thứ 6 (sáu).
Đức tổ Nguyễn Mẫn Tiệp tức Nguyễn Văn Vui, đời thứ 6 (sáu) sinh được 3 con trai thuộc đời thứ 7 (bảy) là các đức tổ:
- Nguyễn Đăng Kiều là tổ chi 1 ngành 2
- Nguyễn Đăng Thụ là tổ chi 2 ngành 2
- Nguyễn Đăng Luyện là tổ chi 3 ngành 2
3- Đức tổ Nguyễn Đăng Luyện đời thứ 7 (bảy) là tổ chi 3 ngành 2 sinh được một con trai là đức tổ Nguyễn Duy Viên (thường gọi là Đỗ Viên), đời thứ 8 (tám) và có một cháu trai là đức tổ Nguyễn Duy Hàn (thường gọi là Đồ Hàn), đời thứ 9 (chín).
Đức tổ Nguyễn Duy Hàn, đời thứ 9 (chín) sinh được 3 con trai thuộc đời thứ 10 (mười) là các đức tổ:
- Nguyễn Duy Tốn là tổ phân chi 1 (chi 3, ngành 2)
- Nguyễn Duy Khuông là tổ phân chi 2 (chi 3, ngành 2)
- Nguyễn Duy Tuế là tổ phân chi 3 (chi 3, ngành 2)
4- Đức tổ Nguyễn Duy Tốn, đời thứ 10 (mười)
Tổ phân chi 1 (chi 3, ngành 2) là Tổ trực tiếp với gia tộc.
a- Ngày, tháng, năm sinh và mất của đức tổ ông, đức tổ bà chưa xác định được.
b- Phần mộ:
- Mộ đức tổ ông: xây hình vuông trên gò nổi (dải đất hình () tại nghĩa trang xã (Mục Nang).
- Mộ đức tổ bà: Xây hình vuông trên thửa ruộng giáp thổ cư gia tộc, phía Bắc xóm Đồng Xích (nay là xóm 1) gần mộ con trai út Nguyễn Pho.
Hai đức tổ sinh được 6 người con trai thuộc đời thứ 11 (mười một) là các cụ tổ:
- Nguyễn Triển, con trưởng. Theo truyền miệng từ xưa là cụ tòng quân, xung trận và sau không rõ tông tích.
- Nguyễn Hậu, con thứ 2, sinh được một con gái là cụ Nguyễn Thị Bớp (đới thứ 12) theo chồng lập nghiệp, sau không rõ tin tức.
- Nguyễn Trần, con thứ 3, sinh được 2 con trai là các cụ Nguyễn Gián và Nguyễn Vòng (đời thứ 12) chuyển cư tới Ninh Giang, tỉnh Hải Dương lập nghiệp và đã hàng chục năm không có liên lạc với họ tộc.
Đất, nhà ở của gia đình cụ tổ là khu vực nền nhà ông Nguyễn Vĩnh (đời thứ 13) và sân từ đường gia tộc ngày nay.
- Nguyễn Yên, con thứ 4, sinh ra cụ Nguyễn Văn Nguyên (đời thứ 12) và có 2 cháu trai là các ông Nguyễn Bao (còn gọi là Mao), Nguyễn Bướm (đời thứ 13), 2 cháu gái là các bà Nguyễn Thị Khuyên, Nguyễn Thị Nhẫn (đời thứ 13)
Ông Nguyễn Bao có một con trai là Nguyễn Hào (đời thứ 14) chuyển cư tới xã Tân Thái, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên lập nghiệp. Nguyễn Hào đã chết đuối ở hồ Núi Cốc (1979).
Ông Nguyễn Bướm có 3 con gái là Nguyễn Thị Bấm (đời thứ 14) sinh sống tại nước Pháp, Nguyễn Thị Chí và Nguyễn Thị Quý (đời thứ 14) sinh sống và lập nghiệp ở quê nhà.
- Nguyễn Ngách: con thứ 5, sinh ra cụ Nguyễn Hữu Tế (1880 - 1939) đời thứ 12 và có 3 cháu trai thuộc đời thứ 13 là các ông Nguyễn Hữu Thế (1898 - 1938), Nguyễn Hữu Thăng (mất năm 1926), Nguyễn Hữu Uy (mất năm 1939).
Ông Nguyễn Hữu Thế có 5 người con: Nguyễn Thị Hoa (1920), Nguyễn Thị An Huệ (1925 - 1998), Nguyễn Viết Phả, thường gọi là Nguyễn Hữu Tề (1927 - 1981), Nguyễn Thị Cậy ( ) và Nguyễn Thị Hồng ( ) thuộc đời thứ 14.
- Nguyễn Pho: con thứ 6 (xem phần thứ hai: Gia tộc Nguyễn Pho Tự Nguyễn Phu)
Phần thứ hai
Nguồn gốc - Thân thế, sự nghiệp các đời trong gia tộc

Đời thứ nhất gia tộc (Đời thứ 11 họ Nguyễn)

Phần thứ hai
Nguồn gốc - Thân thế, sự nghiệp các đời trong gia tộc
Cụ tổ Nguyễn Pho Tự Nguyễn Phu
Ngày, tháng, năm sinh của cụ Tổ không được lưu truyền lại. Theo tính toán khoảng cách năm sinh giữa các đời trong dòng tộc Nguyễn (Nam Huân Nang) và tuổi tác của các đời trong chi, ngành tộc, trong gia tộc, ước đoán cụ sinh vào những năm 1840 - 1850. Cụ mất 15 tháng 1 âm lịch (không rõ năm).
Cụ tổ có hai cụ bà:
1- Cụ bà Cả (đầu tiên) là cụ Vũ Thị Cà, không rõ ngày sinh và ngày mất.
2- Cụ bà kế là cụ Phạm Thị Niệm([1]), không rõ ngày sinh.
Ngày mất: 15 tháng 12 âm lịch (không rõ năm)
Phần mộ:
- Mộ cụ tổ Ông: xây hình tròn, đặt trên thửa ruộng cạnh thổ cư gia tộc phía Bắc xóm Đồng Xích (nay là xóm 1).
- Mộ cụ tổ Bà Vũ Thị Cà: xây hình vuông, đặt tại nghĩa trang xã (Mục Nang) gần khu mộ gia tộc.
- Mộ cụ tổ bà Phạm Thị Niệm, xây hình tròn, đặt trên thửa ruộng cũ của ông Nguyễn Vĩnh, phía Đông là thổ cư ông Nguyễn Trâm, phía Tây là nghĩa trang xã (Nội dưới).
Cụ tổ là con út trong gia đình đông con trai, lại nghèo túng; là một cố nông quanh năm đi làm canh điền cày thuê ruộng đất cho các điền chủ trong làng, không được học hành chữ nghĩa.
Cụ tổ làm lụng cần mẫn, siêng năng; khéo tay cầy, bừa ruộng đất được chủ điền và thợ cấy ưa thích.
Tính tình cụ vui vẻ, cởi mở, dễ gần gũi, hoà nhập với mọi người, nhất là các bạn thợ cầy, thợ cấy cùng cảnh nghèo túng, làm lụng với nhau. Cụ có trí nhớ tốt, nhớ nhiều truyện cổ tích và ưa thích kể lại cho mọi người nghe. Các bạn thợ cầy, thợ cấy thường quây quần xung quanh nghe cụ kể truyện quên hết vất vả, nhọc nhằn. Bạn bè cùng cảnh rất quí mến cụ. Những ngày cụ vắng bóng ngoài đồng ruộng, họ cảm thấy thiếu một người rất thân thương trong gia đình.
Do cha mẹ nghèo túng lại đông con trai nên cụ muộn lập gia đình riêng. Hàng ngày cụ cặm cụi đi làm thuê kiếm sống và giúp đỡ cha mẹ nên chưa dám sớm nghĩ đến việc cưới vợ.
Sau này, cụ lập gia đình với cụ bà Vũ Thị Cà, sinh được 2 con trai Nguyễn Sa và Nguyễn Mưu. Hạnh phúc của hai cụ cùng các con khoảng được sáu, bảy năm thì cụ bà và hai con bị bệnh nặng đã sớm vĩnh biệt cụ. Số phận phũ phàng, bi thảm đến với cụ. Cụ chỉ còn biết hàng ngày cặm cụi đi làm thuê kiếm sống, giảm bớt nỗi sầu muộn. Cụ cứ nấn ná tái hôn và lập lại gia đình.
Mãi đến ngoài 30 tuổi, cụ được cụ tổ Phán Cẩn (họ Phạm), một nhà nho trong làng mến yêu đức tính hiền hậu, vui vẻ, cởi mở, cần mẫn, siêng năng làm lụng của cụ, đã vun đắp xây dựng hạnh phúc trăm năm cho cụ với cô con gái thứ hai là Phạm Thị Niệm. Với sự quan tâm của gia đình, hai người đã ưng thuận thành vợ, thành chồng; sống với nhau hạnh phúc, tin cậy nhau và cũng làm lụng, lập nghiệp.
Hai cụ luôn luôn gắn bó với nhau, vừa đi làm thuê, vừa tự cầy cấy để có thóc gạo trong nhà, vừa chấp gai, đan lát để có tiền chi tiêu. Hai cụ muốn vượt ra khỏi cảnh nghèo nàn, túng bấn để khá giả hơn và có cơ nghiệp riêng.
Hai cụ sinh được một con trai là Nguyễn Phụ và một con gái là Nguyễn Thị Hiền (thường gọi là Hến). Vợ, chồng, con cái sống đầm ấm, hạnh phúc với nhau dưới mái nhà tranh, cạnh cây mít cổ thụ, chung quanh là ao, ngòi, ruộng trũng, đường đi, lối lại còn nhỏ bé và lầy lội khi mưa bão.
Nền nhà của hai cụ khi xưa là nguyên hình nền nhà cũ cháu đích tôn Nguyễn Vĩnh, tiếp theo là cháu Nguyễn Huy Chuyển.
Cây mít cổ thụ ngày xưa ở ngay cạnh đầu nhà và bếp phía sau của cháu Nguyễn Trường, giáp hàng rào cây mây, cây ruối thổ cư cụ Nguyễn Đạn (cụ Tài Đạn).
Ước vọng của hai cụ là gia đình khá giả, thịnh vượng nhưng thời đó tuy làm lụng cật lực vẫn không toại nguyện. Song hai cụ đã lưu lại cho các con, cháu sau này những đức tính tốt đẹp của hai cụ. Các con, cháu đời sau đã thực hiện được.


[1] Có ý kiến: Cụ còn mang tên Phạm Thị Phấn

Đời thứ hai gia tộc (Đời thứ 12 họ Nguyễn)

Cụ Cố Nguyễn Phụ

Sinh năm 1883
Là đời thứ hai trong gia tộc và là đời thứ 12 (mười hai) họ Nguyễn (Nam Huân Nang).
Là con trai duy nhất của cụ tổ Nguyễn Pho tự Nguyễn Phu (đời thứ nhất gia tộc - đời thứ mười một họ Nguyễn) và cụ tổ bà Phạm Thị Niệm ở xóm Đồng Xích, làng Nam Huân Nang, tổng Nam Huân, phủ Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. (Nay là xóm 1 xã Đình Phùng, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình).
Mất ngày 01 tháng 8 năm 1982 (tức ngày 12 tháng 6 năm Nhâm Tuất) vào lúc 23 giờ tại quê.

Cụ cố bà: Phạm Thị Nuôi

Sinh năm 1880
Là con gái đầu cụ tổ Phạm Đạc ở xóm Hậu Ma, làng Nam Huân Nang, tổng Nam Huân, phủ Kiến Xương, tỉnh Thái Bình (nay là xóm 2, xã Đình Phùng, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình).
Mất ngày 22 tháng 6 năm 1956 (tức ngày 14 tháng 5 năm Bính Thân) tại quê.
Phần mộ: Hai cụ cố hợp táng, xây hình tròn trong khu mộ gia tộc tại nghĩa trang xã (Mục Nang) nhìn ra đường liên xã và cánh đồng Tiền Ma.
Hai cụ cố sinh được 5 con trai và 1 con gái là đời thứ 3 trong gia tộc đồng thời là đời thứ 13 (mười ba) họ Nguyễn:
Họ tên
Năm sinh
Ghi chú
Nguyễn Thư
1904
Tức Nguyễn Vĩnh
Nguyễn Lễ
1908
Tức Nguyễn Trường (Nguyễn Xuân Trường)
Nguyễn Lạc
1910
Tức Nguyễn Chuyên
Nguyễn Truyền
1912
Tức Nguyễn Nhân
Nguyễn Huy Chuyển
1916
Nguyễn Thị Gái
1922
Hai cụ đều là con của gia đình nông dân nghèo, đi làm thuê kiếm sống hàng ngày.
Cụ ông có một em gái là cụ Nguyễn Thị Hiền, thường gọi là Hến tức cụ bà Phạm Rương (cụ Lý Rương làng Cao Bạt Nang).
Cụ bà có một em gái là cụ bà Phạm Đậu (cụ Bạ Đậu) cùng làng.
Cụ ông gian truân, vất vả từ thuở nhỏ; chưa đầy 10 tuổi phải làm lụng giúp đỡ cha mẹ và không được học hành chữ nghĩa như con cái của một số nhà quyền quí, giầu có trong làng, xóm.
Hai cụ sống chung với nhau từ khi có gia đình riêng, luôn luôn vui vẻ, hiền hoà; sớm, tối, nắng mưa, bão gió cùng cày cấy ruộng đồng kiếm hạt thóc, hạt ngô, củ khoai và chắp gai, đan lát ở nhà lúc nông nhàn. Hai cụ còn làm hàng xay, hàng xáo, buôn bán thóc gạo chợ gần, chợ xa; buôn bán gai, vó, chài, lưới hết xứ Đông đến xứ Đoài, hết tỉnh này đến tỉnh khác.
Hai cụ khéo léo kết hợp giữa việc cấy ruộng đồng với nghề thủ công và buôn bán để vừa có thóc, lúa, vừa có tiền làm vốn trong gia đình.
Hai cụ cùng nhau lao động, chăm sóc cha mẹ già, nuôi dạy con cái và xây dựng cơ nghiệp ngày một khá giả hơn. Các cụ đã tạo dựng được cơ nghiệp riêng cho từng người con.
Năm 1956, cụ bà mất. Cụ ông sống một mình, không muốn dựa vào con, cháu, vẫn lao động như xưa.
Cụ coi lao động không chỉ làm ra của cải mà còn là nếp sống hàng ngày, là rèn luyện nâng cao thể lực và là nguồn vui, kéo dài tuổi thọ. Ngoài 90 tuổi, cụ vẫn lao động, không lãng quên công việc đồng ruộng, chắp gai, đan vó... Ngay những ngày, tháng cuối đời, cụ vẫn chưa ngừng lao động. Tuy tuổi ngày càng cao nhưng cụ vẫn minh mẫn, vui vẻ. Cụ vĩnh biệt con cháu, họ hàng, làng xóm ra đi đúng kém 3 tháng đầy 100 tuổi. Cụ đại thọ.
Lúc sinh thời, cụ thường chỉ bảo các con trong lập nghiệp là: "Phải lấy việc cầy cấy ruộng đồng làm gốc và trong nhà phải giữ lấy nghề chắp gai, đan vó, chài, lưới là nghề phụ, đồng thời tần tảo buôn bán nơi gần, nơi xa. Làm ruộng phải có nhiều thóc lúa, không để thất thoát. Chắp gai, đan vó, chài, lưới phải đẹp, bền tốt, thích ứng với nhu cầu của khách hàng. Buôn phải tận gốc, bán phải tận ngọn và giữ chữ tín với khách hàng. Của cải làm ra phải ăn sẻn, để dành, phải biết tích cốc, phòng cơ".
Các con tuân theo lời cụ, đều xây dựng cơ nghiệp riêng tốt hơn. Nhà nào cũng có thóc, có tiền.
Cuối năm 1939, đầu năm 1940 cụ khởi xướng lập Công ty buôn bán gai, vó, chài lưới. Các con cùng cụ góp vốn. Công ty được đặt tên là Tư Nguyên. Người con trai thứ tư là ông Nguyễn Truyền (Nguyễn Nhân) làm giám đốc. Trụ sở Công ty ở trên thổ cư cụ Phạm Ngọc (tức cụ Bốn Ngọc) liền đường cái và chợ Nang cũ (trước cửa Đình Cao Bạt Nang và Chùa Nang) để thu mua, bán sản phẩm của bà con dân làng và của những người làng bên đến. Công ty còn có trụ sở giao dịch với khách hàng nơi xa ở phố Hàng Song thành phố Nam Định (Ban đầu ở số nhà 81, sau chuyển lên số nhà 102).
Sau này Công ty mở rộng cổ phần với những người cùng nghề kinh doanh ở trong làng và được đổi tên là Công ty Phổ Niệm (tên vị tổ nghề gai, vó, chài, lưới của làng). Ông Nguyễn Truyền (Nguyễn Nhân) vẫn làm giám đốc. Trụ sở Công ty được chuyển về quán đôi ở chợ Nang mới (cạnh thổ cư các ông Phạm Sửu, Phạm Môn). Trụ sở giao dịch ở thành phố Nam Định chuyển từ phố Hàng Song về phố Hàng Sắt.
Những năm 1943, 1944, nhu cầu mặt hàng gai, vó, chài lưới ở trong nước và nước ngoài ngày càng tăng. Ngoài việc thu mua tại nhà, tại chợ làng, Công ty còn phải lập xưởng đan vó, chài, lưới, làm dây gai khâu giầy... tại sân từ đường ngày nay để tăng sản phẩm đáp ứng kịp yêu cầu của khách hàng.
Công ty ra đời đã tạo được công ăn, việc làm cho đông người trong làng, đồng thời thu mua được sản phẩm của dân làng làm ra; khí thế chắp gai, đan vó, chài, lưới, những năm đó ở làng xóm nhộn nhịp hẳn lên. Đời sống các thành viên Công ty và dân làng khá lên rõ rệt. Khắp nơi đua tranh nhau làm nhà, xây sân, tu bổ đường đi, lối lại sạch đẹp, phong quang và hội hè đình đám vui vẻ. Các gia đình con cái của các cụ cũng khá giả hơn.
Tuy nhiên, sau năm đói ất Dậu (1945), những năm giặc Pháp tàn phá và thời kỳ cải cách ruộng đất, kinh tế của nhiều gia đình con cái cụ bị khủng hoảng trầm trọng, lao đao trong cuộc sống hàng ngày. Có gia đình không còn lương thực, tiền bạc, túng thiếu mọi bề. Các cháu đương cắp sách đến trường phải ngừng học tập, cùng cha mẹ lo kiếm sống từng bữa, từng ngày.
Song với truyền thống lao động của gia tộc, các con, cháu cụ đã thắt lưng, buộc bụng, chịu đựng gian khổ, vất vả, khó khăn, ráng sức làm lụng, sớm khôi phục ổn định đời sống trong từng gia đình. Các cháu lại cắp sách đến trường học hành, học cao hơn, có kiến thức, trình độ học vấn hơn ông, cha, đủ điều kiện tham gia công việc của xã hội và đất nước.
Cụ rất vui mừng trước cảnh đại gia đình đã hồi phục như xưa. Cụ đã nói: "Gia đình ta từ khổ lên khá, từ thịnh lại gặp suy. Suy chỉ tạm thời. Người có tâm, có đức, có lao động thì suy sẽ qua, thịnh sẽ trở lại".
Cụ không chỉ lo xây dựng cơ nghiệp gia đình mình mà còn chăm lo những việc thiện, việc công đức, đóng góp, cúng tiến tiền bạc, thóc lúa xây dựng đường sá, chợ búa, tu bổ từ đường, mua sắm đồ thờ tự v.v...
Năm đói ất Dậu (1945), cụ kiên quyết không tổ chức lễ mừng thọ đã chuyển số tiền 500 đồng tiền Đông Dương tới vị Trưởng họ Nguyễn Vần để san sẻ một chút nhỏ với bà con họ hàng trong khi đói kém. Đấy là suy nghĩ sau xa từ đáy lòng cụ: "Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng", nhưng lúc này lại là người trong một dòng tộc, một huyết thống càng phải thương nhau, chia sẻ vui, buồn, đói, no, sống chết với nhau, không thể ngoảnh mặt làm ngơ trước sự đói khổ của họ hàng. Một vị trong họ Nguyễn xúc cảm trước lòng từ thiện của cụ, đã ca ngợi cụ bằng bài diễn ca "Tấm lòng vàng". Trong đó có những câu:
"... Sáu trăm([1]) giúp họ (ất Dậu 1945) giữa năm hiểm nghèo.
Tình bầu thương bí deo neo
Bọc đùm trong lúc đói nghèo quý sao?
Lòng vàng - máu đỏ nghĩa cao
Trắng răng cho đến bạc đầu không quên".
Từ tầng lớp lao động, nghèo khổ ở nông thôn, cụ từng nếm đủ mùi đói, no, cay đắng, uất ức, túng thiếu của người dân mất nước trong xã hội cũ. Một lần thiếu một suất thuế nộp thay cho người anh họ, cụ bị bọn Lý trưởng cùm kẹp, đánh đập thậm tệ. Cụ rất thông cảm với những người cùng cảnh ngộ.
Khi quê hương có phong trào cách mạng và được Đảng giác ngộ, cụ một lòng theo Đảng. Năm 1930, cụ hoạt động trong hội "Giáp dân đinh", một tổ chức cách mạng của nông dân do Đảng lãnh đạo, đã tham gia phong trào đòi vay thóc của địa chủ, chia cho nông dân nghèo. Trong vụ ấy cụ bị thực dân Pháp bắt và kết án 6 tháng tù giam, 3 năm quản thúc chính trị. Tuy sau khi ra tù bị địch theo dõi, khủng bố nhưng cụ vẫn tiếp tục hoạt động. Bốn con trai lớn của cụ đều là hội viên "Hội giáp dân đinh". Trong những tháng, năm hoạt động đấu tranh với cường quyền, áp bức ở làng, xóm, các con trai đã sát cánh cùng cụ tham gia phong trào ấy.
Con trai thứ hai Nguyễn Trường cũng bị thực dân Pháp bắt, cùng ngồi tù ở nhà pha (trại giam) Thái Bình với cụ. Con trai thứ ba Nguyễn Chuyên là hội viên thanh niên cách mạng đồng chí Hội, treo cờ Đảng, rải truyền đơn và canh gác bảo vệ các cuộc mít tinh do Đảng tổ chức. Con trai thứ tư Nguyễn Nhân cùng cha và các anh tham gia phá kho thóc của địa chủ, chia cho nông dân nghèo và sau đó ở trong đội tự vệ tích cực luyện rèn và dạy võ cho tự vệ bí mật của Đảng bộ địa phương. Con trai thứ năm Nguyễn Huy Chuyển lúc còn ít tuổi xung phong làm liên lạc cho tổ chức Đảng địa phương trong thời kỳ bí mật, cũng bị địch bắt khi đi tiếp tế ăn uống cho những người tham gia phong trào phá kho thóc của địa chủ nhưng trốn thoát được và sau này tham gia tổ chức nông dân ái hữu.
Đến Cách mạng tháng 8 năm 1945, trong đội ngũ quần chúng do Đảng lãnh đạo khởi nghĩa giành chính quyền ở huyện cũng có cả cụ và con, cháu trong gia đình.
Tấm gương hoạt động cách mạng của cụ đã soi sáng trong gia đình. Các con, cháu, chắt trong nhà theo chân cụ đều đi theo Đảng, tham gia cách mạng. Từ ngày đầu cách mạng tháng 8 năm 1945, các con, cháu cụ hăng hái hoạt động. Người thì vào Vệ quốc đoàn đi chiến đấu. Người ở lại quê hương tham gia công tác chính quyền hoặc đoàn thể cách mạng.
Các gia đình con cái cụ là nơi trú ngụ, giúp đỡ cán bộ, thương binh, bộ đội chiến đấu trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Trong cả hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc, các con, cháu cụ đều công tác, chiến đấu ở mọi miền đất nước. Người thì ở ngành kinh tế, thương mại, y tế, giáo dục, người thì ở ngành quân sự. Rất đông con cháu chiến đấu và công tác trong quân đội nhân dân Việt Nam. Có người liên tục 45 năm trong quân đội. Con, cháu, chắt nội, ngoại, trai, gái, dâu, rể của cụ là đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam trên 40 người; một số người đã 50 và gần 60 tuổi Đảng. Trên các chiến trường từ đồng bằng sông Hồng đến đồng bằng sông Cửu Long, từ núi rừng Việt Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên, Lào, Cămpuchia; trong các chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, Điện Biên Phủ trên không, giải phóng Quảng Trị, Tây Nguyên, Sài Gòn, các cháu, chắt cụ vững vàng chiến đấu trước quân thù, không có ai chao đảo, bỏ ngũ, đào ngũ hoặc vi phạm kỷ luật quân đội, kỷ luật chiến trường. Mọi người đều hoàn thành tốt nhiệm vụ ở vị trí công tác của mình và được khen thưởng xứng đáng. Nhiều người đã cống hiến gần hết cuộc đời cho tổ quốc, cho nhân dân và giữ gìn trong sáng đạo đức, phẩm chất cách mạng. Có người chiến đấu anh dũng, quả cảm, lập công hy sinh trên chiến trường như cháu nội liệt sĩ Nguyễn Thái Hoà (trong kháng chiến chống thực dân Pháp), cháu nội liệt sĩ Nguyễn Hưu (trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước) và con rể liệt sĩ Phạm Ruy (trong kháng chiến chống thực dân Pháp). Cháu nội liệt sĩ Nguyễn Thái Hoà gửi tấm thân ở nơi chiến địa tới nay (năm 2002) đã gần 50 năm, vẫn chưa tìm được hài cốt để quy tụ về nghĩa trang liệt sĩ hoặc về quê hương gần gũi với tổ tiên, gia đình, làng xóm.
Trong gia đình, cụ là một người cha, người ông mẫu mực, rất hiền hoà, nhân từ, độ lượng, thương con, cháu. Cụ và các cháu luôn luôn chan hoà. Cụ chẳng bao giờ có lời nói nặng nề với các cháu và phân biệt đối xử nội, ngoại. Cụ thường nhắc nhở các bậc cha mẹ trong nhà không nên đánh, chửi, trút hờn dận với con trẻ. Cụ hay gần gũi kể chuyện cổ tích, răn bảo các cháu. Các cháu rất quí mến, ngoan ngoãn vâng lời dạy bảo của cụ. Cụ là trung tâm đoàn kết trong gia đình. Khi có sự bất hoà trong nhà, cụ tìm cách hoà giải không để kéo dài và thường giúp đỡ, động viên con cái lúc khó khăn, rủi ro. Cụ luôn luôn mong muốn con, cháu không túng thiếu, đói khổ và cũng chẳng bao giờ nghĩ đến sự báo đáp của con, cháu đối với mình.
Trước khi vĩnh biệt cõi trần, cụ còn đem các thứ quà biếu trước đây tích góp, chia cho các con mỗi người một thứ. Cụ giao 1.200 đồng (một nghìn hai trăm đồng) tiền tiết kiệm và 41 chiếc vó (bốn mươi mốt), sản phẩm của cụ làm ra lúc cuối đời, đem bán để lo tang lễ cho cụ. Cụ không muốn con, cháu phải đóng góp tốn kém. Đến giờ chót, cụ vẫn thương con, cháu.
Cuộc đời cụ là như thế. Cụ chỉ là một nông dân bình dị, cần cù lao động, chăm lo cho gia đình, con cháu ấm no, thịnh vượng, học hành tử tế; chăm lo việc thiện, công đức và việc đất nước. Cụ chẳng làm một chức vị gì, chẳng đè nén, ức hiếp ai.
Lý tưởng và ước vọng hạnh phúc suốt đời của cụ đã thành hiện thực:
- Đất nước đã hoàn toàn độc lập, thống nhất.
- Các con cháu trưởng thành, có cơ nghiệp riêng, đời sống ấm no, học hành tử tế.
- Các con cháu tích cực hoạt động cách mạng, đã hoàn thành tốt nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước, quân đội giao cho, lập được công và giữ gìn trong sáng đạo đức, phẩm chất cách mạng.
- Được Đảng và Nhà nước quan tâm khích lệ, con cháu, bạn bè cũng như họ hàng, làng xóm quý trọng.
Cụ luôn luôn là tấm gương sáng trong gia tộc. Các con, cháu vô cùng thương nhớ, kính trọng cụ và tôn vinh cụ: "Người cha, người ông Đại Thọ, Đại Thịnh, Đại Phúc".
Cuộc đời và thân thế sự nghiệp của cụ đã được các báo Quân khu Tả Ngạn số 290 ngày 20/1/1976, báo Giải Phóng, bộ mới số 174 ngày 12/2/1976, báo Cứu quốc số 3828 ngày 10/12/1976 và Báo ảnh Việt Nam số 218/2/1977 đăng bài, ảnh ca ngợi.
Thật vinh quang và vô cùng hạnh phúc với gia tộc.
Hình ảnh cụ luôn luôn trong tâm trí của các con cháu.


([1]) 500 đồng tiền Đông Dương, không phải 600 đồng.

Đời thứ ba (gia tộc)(Đời thứ 13 - họ Nguyễn)

Các con cụ cố Nguyễn Phụ (đời thứ 2 gia tộc, đời thứ 12 họ Nguyễn) là đời thứ 3 gia tộc, đời thứ 13 họ Nguyễn, đều sinh ra tại xóm Đồng Xích làng Nam Huân Nang, tổng Nam Huân, phủ Kiến Xương, tỉnh Thái Bình (nay là xóm 1, xã Đình Phùng, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình), gồm các cụ:

Thứ Tư, 18 tháng 7, 2007

I- Nguyễn Thư tức Nguyễn Vĩnh

1- Là con trưởng, sinh năm 1904, mất lúc 13 giờ ngày 04 tháng 3 năm 1977 (tức ngày 15 tháng giêng năm Đinh Tỵ tại bệnh viện Quân y 109 - Cục Quân y - Tổng cục Hậu Cần) Thị xã Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
2- Cụ bà là Phạm Thị Tý: Sinh năm 1906. Mất lúc 17 giờ ngày 08 tháng 11 năm 1988 (tức ngày 29 tháng 9 năm Mậu Thìn) tại nhà ở quê.
Là con gái cụ cố Phạm Lộc, một nông dân, một hội viên "Hội Giáp dân đinh", ở xóm Tiền Ma (nay là xóm 2 xã Đình Phùng, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình).
Có 7 anh chị em (4 trai, 3 gái - 1 trai chết lúc nhỏ). Trong đó có cụ Phạm Đức Lợi (anh ruột) và cụ Phạm Xiển (em ruột) là đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) từ năm 1930.
3- Phần mộ hai cụ đều xây hình chữ nhật, đặt cạnh nhau trong khu vực mộ của gia tộc tại nghĩa trang xã (Mục Nang) hướng Đông Nam, nhìn ra đường liên xã và cánh đồng Tiền Ma.
Hai bên gia đình cha mẹ đều là nông dân nghèo, có lòng yêu nước, có tinh thần cách mạng. Lúc nhỏ, hai cụ không được học hành, chỉ ở nhà giúp đỡ cha mẹ chăn trâu, cắt cỏ và công việc đồng ruộng.
Hai cụ sớm lập gia đình với nhau và có 10 người con (là Đời thứ 4 trong gia tộc và đời thứ 14 họ Nguyễn):
Họ tên
Năm sinh
Ghi chú
Nguyễn Viết Vy
1926
Mất 17/02/2011 (15 tháng giêng, năm Tân mão)
Nguyễn Văn Hữu
1928

Nguyễn Thị Hợi
1935
(Mất lúc nhỏ)
Nguyễn Ngọc Huệ
1936
(Mất lúc nhỏ)
Nguyễn Thị Lơ
1936

Nguyễn Tri Thông
1941
Mất 7-1-1988 (Tức 18-11 Đinh Mão)
Nguyễn Thị Dịu
1943

Nguyễn Thị Dụ
1945

Nguyễn Văn Việt
1947

Nguyễn Văn Nam
1949

Khi ra ở riêng, hai cụ làm lụng lập nghiệp chưa có vốn liếng nhiều. Nhờ sự giúp đỡ ban đầu của gia đình bên ngoại một con bò và 2 sào ruộng thuê, hai cụ chăm chỉ cày, cấy, chăm bón để có thóc lúa và khi không làm ở đồng ruộng lại chắp gai, đan vó..., cất vó, đơm đó bắt cá, tôm tép, làm hàng xay, hàng xáo ở chợ gần, chợ xa để cải thiện thêm đời sống và tích luỹ vốn liếng. Diện tích cày cấy hàng năm có thuê thêm của làng Phú Mỹ. Thóc lúa thu hoạch mỗi vụ ngày càng tăng lên. Trong nhà đã có nhiều tiền bạc hơn. Năm 1939, hai cụ mua đất lập thổ cư, làm ngôi nhà gỗ, mái rạ 5 gian đầu tiên và nhường ngôi nhà gỗ 5 gian của cha mẹ cho lúc ở riêng cho em trai thứ 5.
Những năm 1940..., hai cụ chung vốn cùng gia đình lập Công ty Tư Nguyên buôn bán gai, vó, chài lưới. Buôn bán phát đạt, tiền bạc trong nhà ngày càng dư dật hơn. Hai cụ không thuê ruộng nộp tô nữa và dành mỗi năm một số tiền tậu một vài sào tư điền của địa chủ, phú nông trong làng bán. Cuối năm 1944, gia đình đã có 4 mẫu, 5 sào tư điền để cày cấy; Kinh tế gia đình năm 1942 - 1944 ở bậc trung nông trong làng. Hai cụ làm thêm căn nhà gỗ xoan, tre, tu bổ cơi ngơi hoàn chỉnh.
Năm ất Dậu (1945), phát xít Nhật bắt nhổ lúa trồng đay, thu mua hết thóc lúa, lại phải nộp sưu thuế cao. Dân làng và gia đình không còn thóc gạo để sinh sống, lâm vào nạn đói.
Tiếp sau cách mạng tháng 8 năm 1945 lại bão gió, vỡ đê, lụt lội, lúa má ngoài đồng hư hại nặng, thu hoạch thất bát.
Kháng chiến toàn quốc (19/12/1946) bùng nổ. Giặc Pháp đánh chiếm tỉnh Thái Bình, lập đồn bốt dày đặc, càn quét bắt bớ giam cầm, liên miên bắn phá tan hoang nhà cửa, ruộng, vườn. Người chết, súc vật chết. Việc cày cấy ruộng đồng của dân làng ngừng trệ và cuộc sống không ổn định.
Sau khi địch rút lui khỏi tỉnh Thái Bình hai cụ thấy không còn đủ sức cày cấy số ruộng của mình và đã để cho hai em trai (nội, ngoại) cày cấy trên một nửa.
Cuối năm 1955, hai cụ cùng các con tham gia tổ đổi công với làng xóm cày cấy số ruộng còn lại. Trong cải cách ruộng đất năm 1956, gia đình bị quy là địa chủ kháng chiến. Cụ ông bị bắt giữ, đấu tố. Nhà cửa, tài sản bị tịch thu, đem chia cho nông dân cốt cán của đội cải cách ruộng đất. Gia đình lâm vào cảnh cực kỳ khó khăn, nghiệt ngã, không còn lương thực, tiền nong, đồ dung sinh hoạt hàng ngày trong nhà. Các con nhỏ phải nghỉ học cùng cụ bà ra sông ngòi, đồng ruộng mò cua, bắt ốc, tôm tép... đem ra chợ đổi bán lấy gạo ăn sinh sống hàng ngày. Tuy khi sửa sai, gia đình được trả lại thành phần Trung nông nhưng phải chịu khó khăn khổ sở kéo dài mấy năm sau này. Hai cụ chỉ còn biết nhẫn nại hàn gắn vết thương gia đình, tiếp tục ráng sức làm lụng để ổn định cuộc sống, nuoi nấng các con nhỏ học hành lên bậc đại học và theo chân các anh đi công tác, chiến đấu quân xâm lược, giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc.
Hai cụ chỉ là một nông dân nghèo, với những bàn tay lao động siêng năng, cần mẫn, căn cơ tiết kiệm mà đi lên; không làm một chức vị gì của chế độ đế quốc thực dân, phong kiến; chẳng phải là cường hào, ác bá nợ máu với nhân dân. Hai cụ sống có tình nghĩa với làng xóm.
Cụ ông rất hiền hậu, trầm tính, siêng năng làm lụng, yêu thương, quý mến con cháu, chẳng hề xích mích với ai. Cụ bà tuy tính tình nóng nảy, bộc trực, nói năng đôi lúc thiếu cẩn trọng, nhưng năng nổ, tháo vát, hay làm, thảo lảo sẵn sàng giúp đỡ những người khó khăn, hoạn nạn.
Trong cả cuộc đời, hai cụ chỉ là người nông dân lương thiện, biết theo lẽ phải, làm theo tiếng gọi của Đảng, của Tổ quốc.
Năm 1930, cụ ông là hội viên "Hội giáp dân đinh" một tổ chức cách mạng của nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương. Trong phong trào đòi vay thóc của địa chủ, chia cho nông dân nghèo, hai cụ đều hăng hái tham gia. Khi Đảng lãnh đạo khởi nghĩa tháng 8 năm 1945 giành chính quyền ở huyện, cụ ông cùng thân thuộc trong gia đình nội, ngoại cũng có mặt trong đội ngũ quần chúng biểu tình. Sau đó cụ ông vào Hội nông dân cứu quốc, cụ bà vào hội phụ nữ cứu quốc, tiếp theo là hội phụ lão. Cụ ông còn là uỷ viên ban chấp hành mặt trận Liên việt huyện Kiến Xương, thường được mời đi dự hội nghị các gia đình có công với cách mạng, với kháng chiến, hội nghị thi đua, ngày lễ, tết của huyện và tỉnh. Hai cụ thường xuyên nhường nhà ở, giúp đỡ cán bộ, thương binh, bộ đội về làng chiến đấu và cất dấu, bảo vệ cán bộ khi địch càn quét.
Từ khởi nghĩa tháng 8 năm 1945, hai con trai lớn của hai cụ gia nhập Vệ quốc đoàn chiến đấu. Con trai trưởng liên tục gần 45 năm trong quân đội. Trong 2 cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, gia đình có 6 người con trai, gái, dâu, rể là sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam. Tiếp theo sau có 4 cháu trai nội cũng là sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngoài ra, hầu hết số con, cháu khác đều là cán bộ, công nhân, viên chức ở các cơ quan Nhà nước. Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam là con, cháu trai, gái, dâu, rể, nội, ngoại có tới 19 người. Các con cháu công tác, chiến đấu vững vàng, hoàn thành tốt nhiệm vụ, lập công được khen thưởng xứng đáng và giữ gìn trong sáng đạo đức, phẩm chất.
Hai cụ được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Bảng gia đình vẻ vang, Bảng vàng danh dự, hai Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ và Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng ba do có công với nước, với dân.
Cuộc đời của hai cụ tuy có lúc phong ba, bão táp, gian truân, vất vả, khó khăn nhưng với tinh thần tự lực cánh sinh, với hai bàn tay lao động của mình, siêng năng, cần mẫn, tần tảo, căn cơ, tiết kiệm xây dựng được gia đình mình trong mọi hoàn cảnh có nền nếp và ổn định cuộc sống; các con cháu học hành tử tế, có kiến thức, trình độ học vấn đủ điều kiện tham gia công việc xã hội, đất nước và có cơ nghiệp riêng.
Đó là điều hạnh phúc nhất của hai cụ.

II- Nguyễn Lễ Tức Nguyễn Trường

(Danh tự: Nguyễn Xuân Trường)
1- Là con thứ hai, sinh ngày 02 tháng 6 năm 1908. Mất lúc 16 giờ 15 phút ngày 21 tháng 12 năm 1999 tức ngày 14 tháng 11 năm Kỷ Mão tại quê. Cụ có 2 cụ bà.
2- Hai cụ bà:
a- Cụ bà cả: Phạm Thị Triển, sinh năm 1906, là con gái cụ cố Phạm Nhị, xóm Trung Nang, cùng làng. Mất ngày 20 tháng 2 năm 1982 tức ngày 25 tháng 2 năm Nhâm Tuất.
b- Cụ bà hai: Nguyễn Thị Chụi (tên khai sinh Nguyễn Thị Lam), sinh năm 1912 là con gái cụ cố Nguyễn Hoạch (thường gọi là cụ Cai Hoạch) ở làng Bạt Trung Nội (sau là thôn Cao Trung - nay là xóm 1, xã Đình Phùng, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình).
Mất ngày 16 tháng 11 năm 2000 tức ngày 21 tháng 10 năm Canh Thìn.
3- Phần mộ:
- Mộ cụ ông và cụ bà hai: nay hung táng tại nghĩa trang xã (Mục Nang) và sau khi cải táng sẽ di chuyển vào khu mộ cát táng của gia tộc ở nghĩa trang xã (Mục Nang).
- Mộ cụ bà cả: đặt trong khu mộ của gia tộc ở nghĩa trang xã (Mục Nang).
Sau khi lập gia đình riêng, cụ ông và cụ bà cả chung sống trong ngôi nhà gỗ xoan 5 gian, mái rạ, hướng Bắc (trên nền nhà ngày nay). Cuối năm 1942, gia đình có thêm cụ bà hai. Cụ bà hai ở chung lúc ban đầu, cùng làm lụng; sau chuyển ra sinh sống, làm lụng riêng ở ngôi nhà gianh, tường đất trên thổ cư của người anh họ Nguyễn Nhật nhượng bán cho.
Các cụ có 14 người con (3 trai, 11 gái) là đời thứ 4 trong gia tộc (Đời thứ 14 họ Nguyễn):
Các con cụ bà cả:
Họ tên
Năm sinh
Ghi chú
Nguyễn Thị Nụ
1927

Nguyễn Bái
1931
Mất 14-6-1987 (tức 19-5 Đinh Mão)
Nguyễn Thị Hoa
1935
Mất 31-10-1994 (Tức 27-9 Giáp Tuất)
Nguyễn Thị Nở
1937

Nguyễn Thị Huê
1939

Nguyễn Thị Cúc
1942

Nguyễn Xuân Chúc
1944

Nguyễn Thị Huệ
1945

Nguyễn Thị Nga
1948
Mất 2-6-2002 (22-4 Nhâm Ngọ)
Nguyễn Mười
1951


Các con cụ bà hai:
Họ tên
Năm sinh
Ghi chú
Nguyễn Thị Lan
1944

Nguyễn Thị Lát
1946

Nguyễn Thị Thắm
1949

Nguyễn Thị Tươi
1956

Cụ ông và cụ bà cả sớm ở riêng. Vốn liếng ban đầu không đáng kể. Hai cụ chỉ cày cấy một vài sào ruộng và chắp gai, đan vó để sinh sống. Ruộng đất cày cấy hàng năm phải thuê làng Phú Mỹ trả tô. Ngoài ra, cụ bà còn buôn bán gai, vó ở chợ phiên trong làng.
Với sức lao động của mình, hai cụ đã dần dần gây dựng cơ nghiệp khá giả hơn.
Cuối năm 1939, đầu năm 1940, hai cụ dỡ ngôi nhà cũ chuyển dựng ở nền mới (quay lưng ra cánh đồng), xây ngôi nhà 5 gian gỗ lim, lợp ngói trên nền cũ, xây bếp, sân, chuồng chạn chăn nuôi. Hai cụ còn góp vốn với anh em trong gia đình lập Công ty Tư Nguyên buôn bán gai, vó, chài, lưới. Cụ ông tích cực hoạt động cho công ty, đi giao dịch, nhận, giao hàng nơi này, nơi khác. Công việc ruộng đồng ở nhà tuy cụ bà và các con gái lớn đảm nhiệm nhưng cụ vẫn quan tâm.
Sau khi chuyển đến nơi ở mới, cụ bà hai cũng chỉ cày cấy vài sào ruộng, chắp gai, đan vó... để sinh sống và nuôi nấng con cái. Tuy cụ ông và cụ bà có quan tâm nhưng cụ bà hai vẫn vất vả, khó khăn. Với đức tính cần cù, siêng năng, chịu khó làm lụng, cụ vượt qua được và nuôi con cái trưởng thành.
Cụ ông lúc tuổi nhỏ được đi học cả quốc ngữ, chữ hán. Cụ học chữ hán nhiều hơn, có khả năng dịch sách, làm thơ chữ hán, viết được văn tế chữ hán. Cụ am hiểu đạo Khổng nho, biết thể thức tế lễ, cúng bái thời phong kiến.
Cụ có kiến thức, sớm hiểu biết thời thế biến động. Năm 1930, cụ là hội viên "Giáp dân đinh", một tổ chức cách mạng của nông dân địa phương do Đảng lãnh đạo; cùng tham gia phong trào đấu tranh sự áp bức, đè nén, bóc lột, và những bất công, hủ tục v.v... của bọn hương lý, cường hào, tham nhũng.
Ngày 12 tháng 4 năm 1930, cụ đã cùng dân làng, cha và anh em trong gia đình tham gia phong trào "nông dân đòi vay thóc địa chủ" của Đảng bộ địa phương tổ chức và lãnh đạo. Trong vụ vay thóc của địa chủ Phạm Song (Bát Song), cụ là một trong những người tiên phong, hăng hái đấu tranh đòi vay thóc, chia cho nông dân nghèo. Đế quốc Pháp và bọn tay sai đưa binh lính về đàn áp. Cụ bị bắt và kết án tù giam. Cụ cùng ngồi tù với cha tại nhà pha (trại giam) Thái Bình. Khi hết hạn tù giam, chúng quản thúc cụ 3 năm tại làng. Mỗi khi cụ ra khỏi làng phải đến trình báo với lý trưởng làng. Sau đó, cụ chỉ chăm lo việc cày cấy ruộng đồng và buôn bán.
Sau ngày khởi nghĩa tháng 8 năm 1945, cụ được Đảng và Mặt trận Việt Minh giao làm Trưởng ban quân sự tiểu khu Nam Thịnh (bao gồm các làng thuộc 2 tổng Nam Huân và Thịnh Quang). Cụ vào Hội Nông dân cứu quốc ở làng và hoạt động công tác đoàn thể, phụ trách các công việc tăng gia sản xuất, thủy lợi v.v... của thôn, làng.
Đến kháng chiến toàn quốc chống Pháp, cụ vẫn hoạt động công tác đó. Gia đình cụ thường xuyên là nơi trú ngụ của cán bộ, thương binh, bộ đội về làng công tác, chiến đấu với địch để bảo vệ dân, làng xóm. Cụ đã nhường nhà ở, giúp đỡ lương thực, thực phẩm cho cơ quan và bộ đội.
Năm 1949, con trai Nguyễn Bái xung phong tòng quân chiến đấu với kẻ thù. Nguyễn Bái đã qua các đơn vị chiến đấu chống Pháp và xuất ngũ khi giảm quân số thời bình. Nguyễn Bái tiếp tục tham gia các hoạt động công tác đoàn thể và xã hội ở đường phố quận Hai Bà Trưng thành phố Hà Nội, là nơi cư trú mới.
Đến kháng chiến chống Mỹ cứu nước, một con gái và một con trai khác vào quân đội nhân dân Việt Nam. Nguyễn Thị Cúc làm quân y sĩ và Nguyễn Xuân Chúc công tác, chiến đấu ở Quân chủng Phòng không - Không quân.
Những người con khác của cụ trừ số ít ở lại quê làm ruộng còn đều thoát ly công tác ở cơ quan, xí nghiệp, công trường... của nhà nước. Hai con trai và hai con rể là đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam.
Trên từng vị trí, lĩnh vực công tác Nhà nước, Quân đội, các con cụ đều hoàn thành tốt nhiệm vụ và được khen thưởng xứng đáng.
Cụ tự hào là cha, con trong gia đình đã cống hiến cho Tổ quốc, cho nhân dân, góp phần chống ngoại xâm giải phóng dân tộc, bảo vệ và xây dựng đất nước. Cụ đã được Chính phủ tặng Bằng khen có thành tích bảo vệ thương binh trong kháng chiến chống Pháp.
Trong cải cách ruộng đất, cụ cũng bị đấu tố, quy là địa chủ kháng chiến. Gia đình lâm vào cảnh vất vả, lao đao về đời sống, đồng thời mối quan hệ trong gia đình không được ổn định. Sau cải cách ruộng đất gia đình được sửa sai và trả lại thành phần trung nông.
Cụ là người đứng mũi, chịu sào đã nhanh chóng khôi phục ổn định cuộc sống của gia đình, việc học hành của con cái và giải quyết mối bất hoà trong nhà.
Cuộc sống trong nhà được sớm ổn định. Mối bất hoà cũng dần dần giải quyết trở lại bình thường.
Các con cháu của cụ đều có gia đình, cơ nghiệp riêng; Có người làm ăn phát đạt.
Đó là điều vui mừng đối với cụ. Cụ đã thanh thản với tuổi già và đại thọ 92 tuổi.